Tiến sỹ THÍCH THIỆN MỸ

Tiến sỹ THÍCH THIỆN MỸ 560/TA- Ấp Tân An-Xã Tân Thành Huyện Lai Vung – Đồng Tháp DD: 0939.826271, 0975.865463 Email : thienmy.thich@gmail.com

Thursday, March 31, 2011

Tác dụng của Vitamin

Tác dụng của Vitamin

22/10/2010 - 13:26 Bernie Hobbs
Nguồn Vitamins: how do they work?

Chúng ta đều biết rằng vitamin và khoáng chất rất cần thiết cho cơ thể khỏe mạnh. Vậy các chất này có tác dụng như thế nào đối với cơ thể con người?

* Bình chọnBình chọn (0)
* Ý kiếnÝ kiến (0)
* ShareChia sẻ
* PrintBản in

[title]

Vitamin C rất cần thiết cho việc hình thành collagen, một loại protein giữ cho da săn chắc (iStockphoto)

Chúng ta thường nghĩ tới vitamin như những viên thuốc ma thuật có thể bù đắp cho chế độ ăn thiếu chất và lối sống không có lợi cho sức khỏe. Tuy nhiên, chúng ta biết gì về vitamin?

Con người cần bổ sung can-xi cho xương và răng. Vitamin C để chống bệnh scurvy (một bệnh đường máu mắc phải do thiếu vitamin C trong khẩu phần ăn hàng ngày. Vitamin D rất cần thiết để tránh dáng đứng vòng kiềng do bệnh còi xương gây ra.

Vậy các phân tử như a-xít ascorbic (vitamin C) và retinol (vitamin A) tác động đến làn da và giúp ta nhìn được trong bóng tối ra sao? Bằng cách nào các khoáng chất bổ sung như kẽm, sắt, can-xi và kali có thể chống các bệnh như thiếu máu, chuột rút và những chứng bệnh khó chịu khác.

Câu trả lời khá dễ hiểu. Hầu hết các vitamin và khoáng chất đều đóng vai trò như các chất phụ trợ, giống như một đoạn mắt xích cần thiết để giúp các enzyme có thể hoạt động.
Các chất phụ trợ - chìa khóa Allen của sự sống

Các enzyme điều phối hàng ngàn phản ứng hóa học diễn ra trong tế bào trong cơ thể người hàng ngày. Mỗi enzyme chịu trách nhiệm về một phản ứng, và để phản ứng đó xảy ra, chất liên quan phải có hình dạng vừa với một lỗ nhỏ trong enzyme.

Lỗ nhỏ này được gọi là khu vực hoạt động và nó có hình dáng và kích cỡ vừa khít với chất phản ứng (chất nền). Một số enzyme có những vùng hoạt động có thể kết hợp ngay với chất nền với hình dạng vốn có, nhưng một số enzyme khác cần hơi xoắn lại để gắn chắc với chất nền.

Và đó là nơi các chất phụ trợ - vitamin và chất khoáng – phát huy tác dụng. Khi một chất phụ trợ gắn kết với một enzyme, nó thay đổi hình dạng của phần kích hoạt đôi chút để vừa với chất nền.

Vitamin C là một trong những chất phụ trợ. Đây là thành phần quan trọng trong quá trình hình thành collagen, một loại protein có tác động như chất tăng cường sợi thủy tinh trong cơ thể. Collagen duy trì da ở trạng thái săn chắc, hỗ trợ gắn kết các cơ quan với nhau và hình thành khung để lớp da mới mọc lên sau khi có chấn thương.

Tác dụng của collagen bắt nguồn từ hình dáng của nó – collagen có cấu tạo là các sợi bện vào nhau giống dây thừng. Một bó enzyme tham gia vào quá trình hình thành và liên kết collagen và một trong những enzyme này cần một phân tử vitamin C để có thể ‘hoàn thành nhiệm vụ’.

Vitamin C bám chặt vùng hoạt động của enzim, thay đổi hình dạng của vùng này để vừa với phân tử collagen (chất nền). Enzyme tạo ra sự biến đổi hóa học trong collagen để có thể tạo ra một gắn kết xoắn ba sợi. Nếu không có vitamin C, enzyme không thể gắn kết với collagen và các sợi hình thành sẽ không xoắn với nhau. Nếu không có lớp collagen ngoài cùng, vết thương sẽ không thể lành hẳn.

Vitamin nhóm B cũng hoạt động tương tự, biến các khu vực hoạt động của enzyme thành các hình dạng nhất định. Đây là các chất phụ trợ trong hầu hết các phản ứng hàng ngày của tế bào, giải phóng năng lượng, tạo ra và phân hủy protein, mỡ và đường (carbohydrate), tạo ra ADN. Không có vitamin K làm chất phụ trợ, các enzyme có tác dụng làm đông máu sẽ không hoạt động.

Tuy nhiên, không phải chỉ có vitamin mà cả các khoáng chất cũng là những chất phụ trợ hữu hiệu. Nhiều khoáng chất trong thức ăn là kim loại nên chúng tạo ra những nguồn năng lượng tích cực khi phân hủy trong cơ thể. Việc tách một phần năng lượng nhỏ tại điểm thích hợp có thể kích hoạt vùng hoạt động của enzyme trong giây lát.

Ma-gie cũng là một chất phụ trợ cho hàng trăm enzyme. Nguyên tố này đóng vai trò quan trọng trong mọi thành phần, từ việc tạo ra DNA và protein tới việc tích trữ năng lượng và tạo ra các tín hiệu thần kinh hay hiện tượng co cơ.

Các nguyên tố măng-gan, mô-líp-đen và xê-len là các chất hiếm được nhắc đến. Tuy nhiên, nếu thiếu chúng, một số enzyme không thể hoạt động và cơ thể con người cũng không thể vận hành bình thường.

Tái tổ chức các enzyme không phải là công việc duy nhất của vitamin – vitamin A và D có thể hoạt động ở mức độ cơ bản hơn như các hormone trực tiếp điều khiển gen trong cơ thể người
Vitamins A và D — các chất điều hòa gen

Khi da tiếp xúc với ánh nắng mặt trời, tia cực tím biến đổi một chút cholesterol thành vitamin D. Đây là loại vitamin duy nhất cơ thể có thể tự điều chế. Vì vậy, con người chỉ cần được bổ sung loại vitamin này trong thức ăn nếu họ ăn mặc quá kín đáo

Vitamin D (cholecalciferol) là chất giúp duy trì lượng can-xi trong máu và xương. Mức độ tập trung can-xi phải ở mức vừa đủ để hệ thần kinh có thể hoạt động hiệu quả. Xương cần can-xi để hình thành các tinh thể và phát triển chắc khỏe.

Để đảm bảo có đủ Ca2+ , vitamin D xâm nhập vào nhân tế bào, gắn kết với một số các chất tiếp nhận và gắn với các ‘công tắc’ trong nhiễm sắc thể. Những công tắc này khiến tế bào tạo ra các protein có khả năng làm tăng can-xi trong máu bằng cách hấp thụ từ thức ăn hoặc lấy từ xương. Nếu không đủ vitamin D, cơ thể sẽ không tạo ra các loại protein này nên sẽ không thể hấp thụ đủ can-xi từ thức ăn. Máu cần được ưu tiên hơn xương nên khi đó các hormone khác sẽ lấy can-xi từ khung xương. Xương bị yếu đi là nguyên nhân gây ra hiện tượng chân vòng kiềng ở những người bị bệnh còi xương khi còn nhỏ. Xương chân đang phát triển bị cong lại dưới sức ép trọng lượng cơ thể. Những người trưởng thành mắc hội chứng thiếu vitamin D có thể không bị vòng kiềng nhưng xương mới hình thành sẽ mềm hơn.

Giống như vitamin D, vitamin A hoạt động như một hormone tác động lên gen để tạo ra một số protein. Tuy nhiên, một dạng khác của vitamin A, retinal (một dẫn xuất từ vitamin A tạo thành sắc tố trong mắt), có tác động trực tiếp hơn đối với cơ thể. Chất này giúp con người có thể nhìn được trong bóng tối.

Vitamin A từ thức ăn chuyển hóa thành retinal, một thành phần có trong cấu tạo mắt ở vị trí các tế bào hình que và hình chóp phát hiện ánh sáng và gửi các tín hiệu hình ảnh về não.

Retinal gắn kết với một protein có tên là opsin hỗ trợ các tế bào hình que. Retinal và protein tạo nên sắc tố rhodopsin. Sắc tố này có thể hấp thụ ánh sáng bước song thấp. Vì vậy, vitamin A rất cần thiết để giúp con người có thể nhìn trong bóng đêm mà không cần dung kính hồng ngoại.
Bổ sung thêm Vitamin E

Trong khi các vitamin khác được công nhận có tác dụng tích cực như những chất phụ trợ hoặc hormone, tác dụng của vitamin E không có gì nổi bật. Đây là chất chống ô-xi hóa và tác dụng chính của nó là dọn sạch các chất cặn bã trong quá trình chuyển hóa sau khi các hoạt động khác đã kết thúc.

Về cơ bản, vitamin E có thành phần chất béo. Giống như các chất béo khác, nó dễ bị tấn cộng bởi các gốc tự do – loại chất thải trong tế bào và có trong khói thuốc và ô nhiễm. Khi phản ứng với các gốc tự do này, vitamin E ngăn chặn các chất này tấn công lớp chất béo tạo thành màng bên trong và xung quanh tế bào.

Hoạt động hiệu quả nhất của loại vitamin này đã được các nhà khoa học phát hiện. Vitamin E có thể được phục hồi sang dạng hoạt động bởi các chất chống ô-xi hóa khác (như vitamin C) và có thể tái hoạt động trở lại.

Mặc dù vitamin và khoáng chất có lợi cho sức khỏe, cơ thể con người chỉ cần một lượng nhỏ các vi chất này. Chúng cũng không phải là những chất hiếm gặp. Cây cối xung quanh chúng ta chính là các nhà máy hấp thu khoáng chất từ đất và sản xuất vitamin. Ăn rau quả xanh, thêm các loại thực phẩm có màu vàng và thêm chút thịt đỏ, bạn đã có các chất phụ trợ gắn kết enzyme và hormone. Nhưng đừng nấu kỹ quá.
http://www.bayvut.com.au/tri-th%E1%BB%A9c/t%C3%A1c-d%E1%BB%A5ng-c%E1%BB%A7-vitamin