Thursday, October 30, 2014
Saturday, October 12, 2013
mua ban hat chum ngay
mua ban hat chum ngay
http://www.mediafire.com/download/ux68n2qbghu3mm6/cay_chum_ngay_vi_thuoc_quy.pdf
http://www.mediafire.com/download/ux68n2qbghu3mm6
http://www.mediafire.com/download/ux68n2qbghu3mm6
http://www.mediafire.com/download/ux68n2qbghu3mm6
mua bán hạt chùm ngây
cây chùm ngây vị thuốc quí Tiến sỹ THÍCH THIỆN MỸ 560/TA- Ấp Tân An-Xã Tân Thành Huyện Lai Vung – Đồng Tháp DD: 0939.826271 Email : thienmy.thich@gmail.com Chùm ngây: loài cây vạn năng cho vùng sinh thái khắc nghiệt Cây chùm ngây còn được gọi là "cây phép mầu", "cây thần diệu", hay "cây phép lạ", bắt nguồn từ tên tiếng Anh là "Miracle tree" Tiếng Ấn Độ là “ Moringa”. Thật vậy, đây là một loài cây đa tác dụng hay nói cách khác là cây vạn năng (multipurpose tree), vì ở nhiều nơi trên thế giới, nhất là các vùng đang phát triển ở châu Á và châu Phi, nó được xem tài nguyên vô giá, chống nạn thiếu dinh dưỡng, Thông tin chi tiết về cây chùm ngây bảo vệ sức khỏe cộng đồng và phòng hộ giảm nhẹ thiên tai. Ngoài khả năng cung cấp chất dinh dưỡng, các bộ phận của cây chùm ngây còn có dược tính phổ rộng, được dùng để điều trị rất nhiều bệnh khác nhau. Chính nền y học cổ truyền của Ấn Độ cũng đã xác định được 300 bệnh khác nhau được điều trị bằng lá của cây này. 1. Về dinh dưỡng học: cây chùm ngây đã thể hiện được rằng, hầu hết các bộ phận sống của nó có chứa đủ các thành phần dinh dưỡng, có thể giúp ích cho sự sống của con người và động vật. 1.1. Lá cây được dùng làm rau ăn (lá, chồi, cành non và cả cây con được dùng trộn dầu dấm ăn thay rau diếp), làm bột cà-ri, ủ chua làm gia vị, làm trà giải khát... Ở châu Phi, nó được dùng để chống suy dinh dưỡng cho trẻ con. Lá chùm ngây chứa nhiều vitamin và muối khoáng có ích, với hàm lượng rất cao: vitamin C cao gấp 7 lần trong cam, provitamin A cao gấp 4 lần trong cà-rốt, calcium cao gấp 4 lần trong sữa, potassium cao gấp 3 lần trong chuối, sắt cao gấp 3 lần trong rau diếp, và ngay cả protein cũng cao gấp 2 lần trong sữa. Ngoài ra, nó còn chứa nhiều vitamin B, các acid amin có lưu huỳnh như methionin, cystein và nhiều acid amin cần thiết khác. Do vậy, lá chùm ngây được xem là một trong những nguồn dinh dưỡng thực vật có giá trị cao. Trong 100 g bột lá sấy khô có: calori 205, protein (g) 27,1, chất béo (g) 2,3, carbohydrate (g) 38,2, chất xơ (g) 19,2, Ca (mg) 2,003, Mg (mg) 368, P (mg) 204, K (mg) 1,324, Cu (mg) 0,57, Fe (mg) 28,2, S (mg) 870, acid oxalic (mg) 1,6%, vitamin A-β carotene (mg) 16,3, vitamin B1 - thiamin (mg) 2,64, vitamin B2 - riboflavin (mg) 20,5, vitamin B3 - nicotinic acid (mg) 8,2, vitamin C - ascorbic acid (mg) 17,3, vitamin E - tocopherol acetate (mg) 113, arginin (g/16gN) 1,33%, histidin (g/16gN) 0,61%, lysin (g/16gN) 1,32%, tryptophan (g/16gN) 0,43%, phenylanaline (g/16gN) 1,39%, methionine (g/16gN) 0,35%, threonine (g/16gN) 1,19%, leucine (g/16gN) 1,95%, isoleucine (g/16gN) 0,83%, valine (g/16gN) 1,06%. 1.2. Bông chùm ngây có thể dùng để làm rau ăn hoặc làm trà (nhiều nước Tây phương sản xuất trà hoa chùm ngây bán ngoài thị trường), cung cấp tốt nguồn muối khoáng calcium và potassium. Nó cũng là nguồn cung cấp nguyên liệu rất tốt cho người nuôi ong. Quả non của nó có thể chiên xào để ăn với hương vị như măng tây. 1.3. Hạt chùm ngây chứa nhiều dầu, lượng dầu chiếm đến 30 - 40% trọng lượng hạt, có nơi trồng chùm ngây ép dầu, năng suất dầu đạt 10 tấn / ha. Dầu hạt chùm ngây chứa 65,7% acid oleic, 9,3% acid palmitic, 7,4% acid stearic và 8,6% acid behenic. Ở Malaysia, hạt chùm ngây được dùng để ăn như đậu phụng. Dầu chùm ngây ăn được, và còn được dùng bôi trơn máy móc, máy đồng hồ, dùng cho công nghệ mỹ phẩm, xà phòng, dùng để chải tóc. Dầu chùm ngây được bán ở thị trường dưới tên gọi tiếng Anh là ben-oil. Chính vì thế cây chùm ngây có tên là "Ben-oil tree". 1.4. Các đoạn rễ non được dùng làm rau thay cho cải ngựa. Cải ngựa là một loài rau diếp với tên khoa học là Armoracia rusticana = Cochlearia armoracia, tên tiếng Anh là Horseradish, vì thế cây chùm ngây còn có tên tiếng Anh là "Horsradish tree" và cũng từ đó người Việt còn gọi nó là "cây cải ngựa". 2. Về y học: nhiều bộ phận của cơ thể cây chùm ngây đã được dùng làm thuốc chữa nhiều bệnh khác nhau. 2.1. Lá, hoa và rễ được dùng trong y học cộng đồng, 1/ chữa trị các khối u. 2/ Lá dùng uống để điều trị chứng hạ huyết áp và 3/vò xát vào vùng thái dương để trị chứng nhức đầu. Nhiều nghiên cứu gần đây cho thấy rằng, 4/ lá chùm ngây có tính chất như một kháng sinh chống các viêm nhiễm nhỏ. 5/ Theo Hartwell, hoa, lá, và rễ còn được dùng trị sưng tấy; 6/còn hạt dùng trị trướng bụng. 7/ Lá còn được dùng để điều trị các vết cắt ở da, vết trầy sướt, sưng tấy, nổi mẩn ngứa hay các dấu hiệu của lão hóa da. 8/ Dịch chiết từ lá có tác dụng duy trì ổn định huyết áp, trị chứng bần thần, chống nhiễm trùng da. 9/Nó cũng được dùng để điều khiển lượng đường máu trong trường hợp bị bệnh tiểu đường. Dịch chiết từ lá có thêm nước cà-rốt là một thức uống lợi tiểu. Bột làm từ lá tươi có khả năng cung cấp năng lượng làm cho năng lượng tăng gấp bội khi dùng thường xuyên. 10/Lá cũng được dùng chữa sốt, viêm phế quản, viêm nhiễm mắt và tai, viêm màng cơ, 11/diệt giun sán và làm thuốc tẩy xổ. 12/ Sản phụ ăn lá sẽ làm tăng tiết sữa. Ở Philippines lá được chỉ định dùng chống thiếu máu, do chứa lượng sắt cao. 13/ Hạt điều trị bệnh viêm dạ dày. Dầu hạt được dùng ngoài để điều trị nấm da. Trường Đại học San Carlos ở Guatemala đã tìm ra một loại kháng sinh có tác dụng như neomycin có khả năng bảo vệ da khỏi sự viêm nhiễm do Staphylococcus aureus. Loại kháng sinh này là một hỗn hợp kháng khuẩn và nấm có tên pterygospermin, danh pháp hóa học là glucosinolate 4 alpha-L-rhamnosyloxy benzyl isothiocyanate. Nhiều nơi trên thế giới dùng bột nghiền từ hạt để khử trùng nước sông, nước sông trong mùa lũ có tổng số trực trùng Escherichia coli lên tới 1.600 - 18.000 / 100 ml, được xử lý bằng bột hạt chùm ngây trong vài giờ đồng hồ đã giảm xuống còn 1 - 200 / 100 ml. 14/ . Rễ có vị đắng, được xem như một loại thuốc bổ cho cơ thể và phổi, điều kinh, long đàm, lợi tiểu nhẹ. 15/ Ở Nicaragua, nước sắc rễ được dùng chữa bệnh phù thủng. Dịch rễ được dùng ngoài để điều trị chứng mẩn ngứa do dị ứng. Trong rễ và hạt, cũng có chất kháng sinh pterygospermin. 2.4. Vỏ cây được dùng điều trị chứng thiếu vitamin C, đôi khi dùng trị tiêu chảy. 2.5. Trong những năm gần đây, những công trình nghiên cứu được công bố trong các báo "Phytotherapy Rechearch" và "Hort Science" cũng đã cho thấy các tác dụng khác nhau của các bộ phận cây chùm ngây như, chống hạ đường huyết, giảm sưng tấy, chữa viêm loét dạ dày, điều trị chứng hạ huyết áp và ngay cả làm êm dịu thần kinh trung ương. VIII. CÔNG DỤNG CỦA CÂY CHÙM NGÂY TRÊN THẾ GIỚI: 16/ Mỹ hiện nay là nước nhập nguyên liệu Moringa thô nhiều nhất, sử dụng trong công nghê mỹ phẩm cao cấp, nước uống và quan trong hơn là chiết suất thành nguyên liệu tinh cung ứng cho công nghiệp dược phẩm, hóa chất. 17/ Ấn Độ: Chùm Ngây được gọi là sainjna, mungna (Hindi, Asam, Bengal..); Phạn ngữ: Shobhanjana.Là một trong những cây thuốc “dân gian” rất thông dụng tại Ấn Độ. Vỏ thân được dùng trị nóng sốt, đau bao tử, đau bụng khi có kinh, sâu răng, làm thuốc thoa trị hói tóc; trị đau trong cổ họng (dùng chung với hoa của cây nghệ, hạt tiêu đen, rễ củ Dioscorea oppositifolia); trị kinh phong (dùng chung với thuốc phiện); trị đau quanh cổ (thoa chung với căn hành của Melothria heterophylla, Cocci nia cordifolia, hạt mướp (Luffa) và hạt Lagenaria vulgaris); trị tiểu ra máu; trị thổ tả (dùng chung với vỏ thân Calotropis gigantea, Tiêu đen, và Chìa vôi. Hoa dùng làm thuốc bổ, lợi tiểu. Quả giã kỹ với gừng và lá Justicia gendarussa để làm thuốc đắp trị gẫy xương. Lá trị ốm còi, gây nôn và đau bụng khi có kinh. Hạt: dầu từ hạt để trị phong thấp. 18/ Pakistan: Cây được gọi là Sajana, Sigru. Cũng như tại Ấn, Chùm Ngây được dùng rất nhiều để làm các phương thuốc trị bệnh trong dân gian. Ngoài các cáchsử dụng như tại Ấn độ, các thành phần của cây còn được dùng như : Lá giả nát đắp lên vết thương, trị sưng và nhọt, đắp và bọng dịch hoàn để trị sưng và sa; trộn với mật ong đắp lên mắt để trị mắt sưng đỏ.. Vỏ thân dùng để phá thai bằng cách đưa vào tử cung để gây giãn nở. Vỏ rễ dùng sắc lấy nước trị đau răng, đau tai..Rễ tươi của cây non dùng trị nóng sốt , phong thấp, gout, sưng gan và lá lách..Nhựa từ chồi non dùng chung với sữa trị nhức đầu, sưng răng.. 19/ Trung Mỹ: Hạt Chùm Ngây được dùng trị táo bón, mụn cóc và giun sán • Saudi Arabia : Hạt được dùng trị đau bụng, ăn không tiêu, nóng sốt, sưng tấy ngoài da, tiểu đường và đau thắt ngang hông. • Việt Nam : Rễ Chùm Ngây được cho là có tính kích thích, giúp lưu thông máu huyết, làm dễ tiêu hóa, tác dụng trên hệ thần kinh, làm dịu đau. Hoa có tính kích dục. Hạt làm giảm đau. Nhựa (gomme) từ thân có tác dụng làm dịu đau. Liều lượng và các phản ứng phụ cần lưu ý: Hiện nay chưa có những báo cáo về những nguy hại đối với sức khoẻ trong việc sử dụng Hạt và Rễ Chùm Ngây theo các liều lượng trị liệu. Tuy nhiên dùng liều quá cao có thể gây ra buồn nôn, chóng mặt và ói mửa. Liều cho uống : 5gram/ kg trọng lượng cơ thể, thử trên chuột , gây phản ứng keratin hóa quá mức tế bào bao tử và sơ hóa tế bào gan. Liều chích qua màng phúc toan 22 đến 50 mg/ kg trọng lượng cơ thể gây tử vong nơi chuột thử nghiệm. Không nên dùng Rễ Chùm ngây nơi phụ nữ có thai, vì có khả năng gây trụy thai. ( Nguồn:DS Trần Viết Hưng/ ĐH Cần Thơ) 3. Về ứng dụng công nghiệp: gỗ cây chùm ngây rất nhẹ, có thể dùng làm củi, nhưng năng lượng không cao. Nó được xem là nguồn nguyên liệu tiềm năng cho kỹ nghệ giấy và còn được dùng để chế phẩm màu xanh. Vỏ cây có khả năng cung cấp ta-nanh (tannin, tanin), nhựa dầu và sợi thô. 4. Khả năng phòng hộ: Cây chùm ngây thuộc loại cây mọc nhanh và dễ tính, sống được ở những điều kiện đất đai khô cằn và trong điều kiện khí hậu khắc nghiệt, chịu được hạn hán. Do vậy, nhiều nơi trên thế giới, cây chùm ngây được trồng làm hàng rào xanh che chắn cho các khu sản xuất nông nghiệp, che bóng cho các cây công nghiệp dài ngày, chắn gió, chắn cát bay. Ngoài ra, cây có khả năng cải tạo đất, lá dùng làm phân xanh và làm thức ăn bổ sung cho gia súc rất tốt, cây có lá nhỏ, thân thon, tán đẹp nên được trồng làm cảnh. 5. Đặc điểm hình thái học: Cây chùm ngây có dạng sống là cây gỗ nhỏ, cao từ 8 - 10m. Lá kép lông chim 3 lần, dài 30 - 60 cm, với nhiều lá chét màu xanh mốc mốc, không lông, dài 1,3 - 2 cm, rộng 0,3 - 0,6 cm; lá kèm bao lấy chồi. Hoa thơm, to, dạng hơi giống hoa đậu, tràng hoa gồm 5 cánh, màu trắng, vểnh lên, rộng khoảng 2,5 cm. Bộ nhị gồm 5 nhị thụ xen với 5 nhị lép. Bầu noãn 1 buồng do 3 lá noãn, đính phôi trắc mô. Quả nang dài từ 30 - 120 cm, rộng 2 cm, khi khô mở thành 3 mảnh dày. Hạt nhiều (khoảng 20), tròn dẹp, to khoảng 1 cm, có 3 cánh mỏng bao quanh. 6. Đặc điểm phân loại: chùm ngây là một trong 13 loài thuộc chi Moringa, họ Moringaceae, với tên khoa học là Moringa oleifera Lamk.. Trong đó, Moringa là tên chi, được Latin hóa từ tên bản xứ gốc tiếng Tamil murungakkai, oleifera có nghĩa là chứa dầu, được ghép bởi gốc từ olei- (dầu) và -fera (mang, chứa). Tên đồng nghĩa là Moringa pterygosperma Gaertn. (pterygosperma: phôi có cánh, tên kháng sinh pterydospermin cũng từ đây mà có), Guilandina moringa L., Moringa moringa (L.) Small. Trên thế giới, chùm ngây được gọi dưới nhiều tên khác nhau: Tiếng Anh: Horsradish tree, Ben tree, Behn tree, Ben-oil tree, Benzolive tree, West Indian ben, Drumstick tree, Moringa tree Tiếng Pháp: Ben ailé, Ben ailée, Ben oléifère, Moringa ailée, Pois quénique Tiếng Đức: Behenbaum, Behennussbaum, Meerrettichbaum Tiếng Hà Lan: Benboom, Peperwortel boom Tiếng Ý: Been, Bemen. Tiếng Arabia: Habbah ghaliah, Rawag (Sudan), Shagara al ruway (Sudan). Tiếng Bồ Đào Nha: Acácia branca, Moringa, Muringueiro. Tiếng Tây Ban Nha : Arbol de las perlas, Arbol do los aspáragos, Ben, Jacinto (Panama), Jasmin francés, Jazmin francés (Puerto Rico), Maranga, Maranga calalu (Honduras), Marango (Costa Rica), Palo de aceite (Dominican Republic), Palo de abejas (Dominican Republic), Paraíso, Paraíso blanco (Guatemala), Perlas (Guatemala), Resada (Puerto Rico). Tiếng Nga: Моринга олейфера. Tiếng Myanmar: Dandalonbin, Dan da lun. Tiếng Nhật: Wasabi no ki. Tiếng Khmer : Daem mrom. Tiếng Indonesia : Kelor, Kalor. Tiếng Malaysia : Moringa, Muringa, Sigru. Tiếng Ấn Độ : Sobhan jana. Tiếng Tamil: Murungai. Tiếng Thái: Ka naeng doeng, Ma khon kom, Ma rum (bean / pod), Phak i huem, Phak i hum, Phak nuea kai, Phak ma rum (leaves), Se cho ya. 7. Đặc điểm phân bố: Cây có nguồn gốc ở Ấn Độ, Arabia, châu Phi, vùng Viễn Tây châu Mỹ; được trồng và mọc tự nhiên ở vùng nhiệt đới châu Phi, nhiệt đới châu Mỹ, Sri Lanka, Ấn Độ, Mexico, Malabar, Malaysia và Philippines. Ở Việt Nam, từ lâu, cây đã được trồng ở Nha Trang, Phan Thiết, Phú Quốc. Gần đây, kiều bào ở Mỹ Trần Tiễn Khanh đã chuyển về Việt Nam 100 hạt giống, đã được phân phát cho một số nông dân ở Quảng Ngãi, Quảng Nam, Đà Nẵng. 8. Đặc điểm sinh thái: Cây có khả năng sống từ vùng Cận nhiệt đới khô đến ẩm cho đến vùng nhiệt đới rất khô đến vùng rừng ẩm. Chịu lượng mưa từ 480 - 4000 mm/năm, nhiệt độ 18,7 - 28,5oC và pH 4,5 - 8. Chịu được hạn và có thể sinh trưởng tốt trên đất cát khô 9. Nhân giống: Ở Ấn Độ, cây được nhân giống bằng cành 1 - 2 m. Thời vụ thích hợp từ tháng 5 - 8. Cây bắt đầu cho quả sau 6 - 8 tháng trồng. Quả được thu hoạch giữa tháng ba và tháng tư, sau đó thu lại một đợt nữa trong tháng 9 và tháng 10. 10. Tình hình sâu bệnh hại: Sâu bệnh hại thường gặp là Ruồi đục quả Gitona spp., các loài bọ cánh cứng hại lá cây con và cây chồi giâm hom như: Mylloceus discolor, M. viridanus, Ptochus ovulum, thực vật ký sinh Dendrophthoe flacata và các nấm hại bao gồm: Cercospora moringicola, Sphaceloma morindae, Puccinia moringae, Oidium sp., Polyporus gilvus. Như vậy, đối chiếu các tính năng thực vật học, sinh thái học và các thành tựu về dinh dưỡng học, y học, môi trường học, chúng tôi thấy rằng, đây là một loài cây đầy tiềm năng cho việc hỗ trợ sự phát triển cộng đồng nông thôn miền núi và vùng cát ven biển. Ở khu vực miền Trung Việt Nam nói chung và Thừa Thiên Huế nói riêng, cuộc sống của cư dân trên dải đất cát ven biển đang gặp nhiều khó khăn, do thường xuyên chịu ảnh hưởng của thiên tai và điều kiện khắc kiện của môi trường sống, rất cần phát triển những loài cây vạn năng thích hợp. Tôi nghĩ rằng, đã đến lúc nghĩ tới việc bố trí thử nghiệm các mô hình trồng cây đa tác dụng cho vùng cát ven biển và vùng cát nội đồng, mà cây chùm ngây là một đối tượng không thể bỏ qua, hầu giúp cư dân nơi đây có thêm một nguồn tài nguyên mới, hỗ trợ cho việc bảo vệ sức khỏe cộng đồng và cứu đói những lúc giáp hạt. *Lợi ích và công dụng : Chùm ngây là một trong những loài cây vô cùng hữu ích. Nó vừa cung cấp dinh dưỡng, vừa làm thuốc mà lại còn là nguyên liệu để sản xuất mỹ phẩm. Lá của cây chùm ngây được dùng làm rau. Nó có thể ăn sống như các loài rau sống khác. Cũng có thể nghiền lá ra để làm nước sinh tố. Nếu nấu canh thì ta được món canh giống với canh rau ngót. Người già, trẻ em và người có thể trạng yếu, nếu ăn rau chùm ngây sẽ rất mau khỏe. Cần chú ý, phụ nữ có thai không nên ăn chùm ngây vì có thể bị sẩy thai. Chùm ngây còn có tác dụng phòng và trị rất nhiều bệnh như: Ung thư, tiểu đường, thiếu máu, còi xương, bệnh tim mạch, ung loét, co giật, bệnh gan... Nó giúp ta hạ huyết áp và hạ cholesterol, chống oxy hóa... Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) và Tổ chức Nông lương Thế giới (FAO) đều đề cao cây chùm ngây, coi nó là cứu tinh cho người nghèo, đặc biệt ở các nước thuộc thế giới thứ 3... Và còn rất nhiều công dụng không thể ngờ tới của chùm ngây mời anh em thao khảo trên internet *Giá trị kinh tế [LIST] • lá non 1 kg từ 70.000 - 80.000 đồng • Rễ cây 20 năm tuổi 800 - 1000 000 đồng/kg • Bột lá khô :500 - 600 000 /kg
Monday, January 7, 2013
Công dụng của Mật Ong trong bệnh tiểu đường
Công dụng của Mật Ong trong bệnh tiểu đường
Võ Hà
Mật ong được tạo thành từ chất ngọt do ong thu thập được trong các bông hoa. Theo quy định của Hội Đồng Ong Mật Quốc Gia Mỹ và nhiều quy định về thực phẩm quốc tế khác quy định rằng "mật ong là một sản phẩm thuần khiết không cho phép thêm bất kỳ chất gì vào... bao gồm nhưng không giới hạn trong, nước và các chất ngọt khác". Bài này chỉ đề cập về mật ong do ong mật (chi Apis) tạo ra; mật do các loài ong khác hay các loài côn trùng khác có các đặc tính rất khác biệt.
Một trong những đặc tính của Mật Ong là giúp chữa lành vết lở loét cho bệnh nhân tiểu đường
Ở các bệnh nhân tiểu đường, các vết thương dù nhỏ nhất cũng rất khó lành, nhiều khi phải tiến hành cắt bỏ tay, chân. Nhưng giờ đây, các nhà khoa học đã khám ra một phương thuốc chữa trị hiệu quả cho các bệnh nhân tiểu đường.
Ở những bệnh nhân mắc bệnh tiểu đường, những vết lở loét thường rất khó chữa do khả năng chống nhiễm trùng của cơ thể rất kém. Thậm chí nếu vết loét quá sâu và nặng thì phải “đoạn chi” (cắt cụt tay, chân). Tuy nhiên những phát hiện mới nhất cho thấy: mật ong có thể giúp chữa trị hiệu quả chứng lở loét nguy hiểm này.
Các bệnh nhân mắc bệnh tiểu đường thường xuyên phải chú ý tới hoạt động của mình, vì chỉ cần một vết xước nhỏ ở chân hay một vết xước móng ở tay cũng có thể mưng mủ hàng tháng trời, sau đó chuyển thành loét. Thực tế, loét chân là chứng bệnh thường gặp phải ở bệnh nhân tiểu đường. Một nghiên cứu đã tìm ra rằng: cứ 5 người mắc tiểu đường thì có 1 người bị nhiễm loét và phải chữa bằng phương pháp “đoạn chi” (cắt cụt tay, chân). Tuy nhiên gần đây các nhà nghiên cứu đã tìm ra một phương thuốc cổ xưa và có hiệu quả điều trị chứng lở loét ở những bệnh nhân bị bệnh tiểu đường: đó là mật ong.
Rita Arsenault, một bệnh nhân tiểu đường sống tại thành phố Mass, Michigan, đồng thời cũng là một trong số những người đã được chữa trị loét chân thành công bằng mật ong mà không cần dùng tới phương pháp “đoạn chi” cho biết: “Tôi bị một con nhện đốt vào ngón chân, vài ngày sau vết thương đó ngày càng loét rộng và sâu. Thậm chí tôi còn có thể nhìn thấy gân chân của mình. Một vài bác sĩ khuyên tôi nên điều trị bằng phương pháp cấy ghép da. Nhưng nếu nó không thành công, có khả năng tôi sẽ mất đi đôi chân. Thay vào đó, tôi tìm gặp bác sĩ Paul Liguori, thuộc bệnh viện Haverhill, để được điều trị bằng cách bôi mật ong vào vết thương rồi băng bó lại. Thật không thể tin được, sau hơn một tháng vết loét đã hoàn toàn biến mất, thậm chí còn không để lại sẹo.”
Sử dụng mật ong để chữa lành vết thương không phải là một phương pháp mới. Các nhà nhân chủng học đã tìm ra những bằng chứng chỉ ra rằng: những người Ai Cập cổ đại đã sử dụng nó từ hơn 5000 năm trước. Tuy nhiên, cho tới nay vẫn còn rất nhiều người không biết tới tác dụng này của mật ong.
Tiến sĩ Peter Molan thuộc Đại học Waikato New Zealand cho biết: “Mật ong có đặc tính tiêu diệt vi khuẩn rất mạnh, do trong mật ong có hàm lượng axit cao, hàm lượng nước thấp, đặc tính khử nước mạnh. Những vi khuẩn gây loét có tính kháng thuốc rất cao, do vậy gần như mọi loại thuốc kháng sinh đều không có tác dụng. Mật ong là một phương thuốc hiệu quả để điều trị chứng lở loét.”
Một nghiên cứu đã được tiến hành trên 2 nhóm bệnh nhân tiểu đường bị loét chân. Cả 2 nhóm được điều trị trong 12 tuần theo hai phương pháp khác nhau. Nhóm 1 được điều trị bằng mật ong, nhóm 2 sử dụng hydrogel, một loại gel trong suốt thường được dùng để làm lành vết thương.
Kết quả là: nhóm 1 giảm được tới 34% kích cỡ của vết loét. Ngược lại nhóm 2 chỉ giảm được 13%. Sau 12 tuần, số lượng bệnh nhân trong nhóm 1 khỏi bệnh nhiều hơn hẳn so với nhóm 2.
Tiến sĩ Peter cho biết thêm: “Ngoài khả năng tiêu diệt vi khuẩn, mật ong còn đem lại nhiều lợi ích cho bệnh nhân. Chữa trị bằng mật ong ít gây đau đớn hơn và ít để lại sẹo cho người bệnh. Hơn nữa, đây là phương pháp tiện lợi, dễ sử dụng, chi phí lại thấp nhưng hiệu quả hơn nhiều so với các phương pháp điều trị khác.”
Võ Hà
http://www.tapchithegioimoi.com/tm.php?recordID=3919
Tuesday, November 22, 2011
Dược tính của Mãng cầu xiêm
Mãng cầu xiêm (lá, rễ và hạt) được dùng làm thuốc tại rất nhiều nơi trên thế giới, nhất là tại những quốc gia Nam Mỹ. Tại Peru, trong vùng núi Andes, lá mãng cầu được dùng làm thuốc trị cảm, xổ mũi; hạt nghiền nát làm thuốc trừ sâu bọ; trong vùng Amazon, vỏ cây và lá dùng trị tiểu đường, làm dịu đau, chống co giật... Tại Guyana lá và vỏ cây, nấu thành trà dược giúp trị đau và bổ tim. Tại Batây, trong vùng Amazon lá nấu thành trà trị bệnh gan; dầu ép từ lá và quả còn non, trộn với dầu olive làm thuốc thoa bên ngoài trị thấp khớp, đau sưng gân cốt. Tại Jamaica, Haiti và West Indies: quả hay nước ép từ quả dùng trị nóng sốt, giúp sinh sữa và trị tiêu chảy; vỏ thân cây và lá dùng trị đau nhức, chống co-giật, ho, suyển... Tại Ấn độ, cây được gọi theo tiếng Tamilnadu là mullu-chitta: Quả dùng chống scorbut; hạt gây nôn mửa và làm se da. Tại Việt Nam, hạt được dùng như hạt Na, nghiền nát trong nước, lấy nước gội đầu để trị chí rận. Một phương thuốc Nam khá phổ biến để trị huyết áp cao là dùng vỏ quả hay lá Mãng cầu xiêm, sắc chung với Rễ nhàu và rau cần thành nước uống (bỏ bã) mỗi ngày.
* Dược tính của Mãng cầu xiêm
Các nhà khoa học đã nghiên cứu về dược tính của Mãng cầu xiêm từ 1940 và ly trích được nhiều hoạt chất. Một số các nhgiên cứu sơ khởi được công bố trong khoảng thời gian 1940 đến 1962 ghi nhận vỏ, thân và lá mãng cầu xiêm có những tác dụng làm hạ huyết áp, chống co giật, làm giãn nở mạch máu, thư giãn cơ trơn khi thử trên thú vật. Đến 1991, tác dụng hạ huyết áp của lá mãng cầu xiêm đã được tái xác nhận. Các nghiên cứu sau đó đã chứng minh được là dịch chiết từ lá, vỏ thân, rễ, chồi và hạt mãng cầu xiêm có những tác dụng kháng sinh chống lại một số vi khuẩn gây bệnh, và vỏ cây có khả năng chống nấm...
Hoạt tính của các acetogenins: Trong một chương trình nghiên cứu về dược thảo của National Cancer Institute vào năm 1976, lá và chồi của mãng cầu xiêm được ghi nhận là có hoạt tính diệt các tế bào của một số loại ung thư. Hoạt tính này được cho là do ở nhóm hợp chất, đặt tên là annonaceous acetogenins.
Các nghiên cứu về acetogenins cho thấy những chất này có khả năng ức chế rất mạnh Hỗn hợp phức tạp I (Complex I) ở trong các hệ thống chuyển vận electron nơi ty thể (mitichondria) kể cả của tế bào ung thư : các cây của gia đình Anonna có chứa nhiều loại acetogenins hoạt tính rất mạnh, một số có tác dụng diệt tế bào u-bướu ở nồng độ EC50 rất thấp, ngay ở 10-9 microgram/ mL.
Trường ĐH Purdue là nơi có nhiều nghiên cứu nhất về hoạt tính của gia đình Annona, và giữ hàng chục bản quyền về acetogenins, và công bố khá nhiều thí nghiệm lâm sàng về tác dụng của acetogenins trên ung thư, diệt bướu ung độc.
Một nghiên cứu năm 1998 ghi nhận một loại acetogenin trích từ Mãng cầu xiêm có tác dụng chọn lựa, diệt được tế bào ung thư ruột già loại adenocarcinoma, tác dụng này mạnh gấp 10 ngàn lần adriamycin.
Theo các kết quả nghiên cứu tại Purdue thì “Các acetogenins từ annonaceae, là những acid béo có dây carbon dài từ 32-34, phối hợp với một đơn vị 2-propanol tại C-2 để tạo thành một vòng lactone. Acetogenins có những hoạt tính sinh học như chống u-bướu, kích ứng miễn nhiễm, diệt sâu bọ, chống protozoa, diệt giun sán và kháng sinh. Acetogenins là những chất ức chế rất mạnh NADH: Ubiquinone oxidoreductase, vốn là một enzym căn bản cần thiết cho complex I đưa đến phản ứng phosphoryl-oxid hóa trong mitochondria. Acetogenins tác dụng trực tiếp vào các vị trí ubiquinone-catalytic nằm trong complex I và ngay vào men glucose dehydrogenase của vi trùng. Acetogenins cũng ức chế men ubiquinone-kết với NADH oxidase, chỉ có nơi màng plasma của tế bào ung thư (Recent Advances in Annonaceous Acetogenins-Purdue University -1997)”.
Các acetogenins Muricoreacin và Muricohexocin có những hoạt tính diệt bào khá mạnh trên 6 loại tế bào ung thư như Ung thư prostate loại adenocarcinoma (PC-3), Ung thư lá lách loại carcinoma (PACA-2) (ĐH Purdue, West LaFayette, IN- trong Phytochemistry số 49-1998)
Một acetogenin khác, Bullatacin có khả năng diệt được các tế bào ung thư đã kháng được nhiều thuốc dùng trong hóa-chất trị liệu, do ở hoạt tính ngăn chận sự chế tạo Adenosine triphosphate (ATP) cần thiết cho hoạt động của tế bào ung thư (Cancer Letter June 1997).
Các acetogenins trích từ lá Annomutacin, cùng các hợp chất loại annonacin-A-one có hoạt tính diệt được tế bào ung thư phổi dòng A-549 (Journal of Natural Products Số Tháng 9-1995).
Các dược tính khác
Các alkaloid: annonaine, nornuciferine và asimilobine trích được từ quả có tác dụng an thần và trị đau. Hoạt tính này do ở khả năng ức chế sự nối kết của [3H] rauwolscine vào các thụ thể 5-HT1A nằm trong phần yên của não bộ. (Journal of Pharmacy and Pharmacology Số 49-1997).
Dịch chiết từ quả bằng ethanol có tác dụng ức chế được siêu vi trùng Herpes Simplex (HSV-1) ở nồng độ 1mg/ml (Journal of Ethnopharmacology Số 61-1998).
Các dịch chiết bằng hexane, ethyl acetate và methanol từ quả đều có những hoạt tính diệt được ký sinh trùng Leishmania braziliensis và L.panamensis (tác dụng này còn mạnh hơn cả chất Glucantime dùng làm tiêu chuẩn đối chiếu). Ngoài ra các acetogenins cô lập được annonacein, annonacin A và annomuricin A có các hoạt tính gây độc hại cho các tế bào ung thư dòng U-937 (Fitotherapia Số 71-2000).
Thử nghiệm tại ĐH Universidade Federal de Alagoas, Maceio-AL, Ba Tây ghi nhận dịch chiết từ lá bằng ethanol có khả năng diệt được nhuyến thể (ốc-sò) loài Biomphalaria glabrata ở nồng độ LD50 = 8.75 ppm, và có thêm đặc điểm là diệt được các tụ khối trứng của sên (Phytomedicine Số 8-2001).
Một lectin loại glycoproteine chứa 8% carbohydrate, ly trích từ hạt có hoạt tính kết tụ hồng huyết cầu cũa người, ngỗng, ngựa và gà, đồng thời ức chế được sự tăng trưởng của các nấm và mốc loại Fusarium oxysoporum, Fusarium solani và Colletotrichum musae (Journal of Protein Chemistry Số 22-2003).
* Mãng cầu xiêm và bệnh Parkinson
Tại vùng West Indies thuộc Pháp, nhất là ở Guadaloupe có tình trạng xẩy ra bất thường về con số các bệnh nhân bị bệnh Parkinson, loại kháng-levo dopa: những bệnh nhân này đều tiêu thụ một lượng cao, và trong một thời gian lâu dài Soursop hay Mãng cầu xiêm (A.muricata).
Những nghiên cứu sơ khởi trong năm 1999 (công bố trên tạp chí Lancet Số 354, ngày 23 tháng 10 năm 1999) trên 87 bệnh nhân đưa đến kết luận là rất có thể có sự liên hệ giữa dùng nhiều mãng cầu xiêm, vốn có chứa các alkaloids loại benzyltetrahydroisoquinoleine độc hại về thần kinh. Nhóm bệnh nhân có những triệu chứng Parkinson không chuyên biệt (atipycal), gồm 30 người dùng khá nhiều mãng cầu trong cách ăn uống hàng ngày.
Nghiên cứu sâu rộng hơn vào năm 2002, cũng tại Guadeloupe, nhằm vào nhóm bệnh nhân Parkinson (atypical) cho thấy khi tách riêng các tế bào thần kinh (neuron) loại mesencephalic dopaminergic và cấy trong môi trường có chứa dịch chiết toàn phần rễ mãng cầu xiêm, hoặc chứa các hoạt chất cô lập như coreximinine, reticuline , có các kết quả như sau: Sau 24 giờ tiếp xúc 50% các tế bào thần kinh cấy bị suy thoái ở nồng độ 18 microg/ml dịch chiết toàn phần; 4.3 microg/ml coreximine và 100 microg/ml reticuline. Nghiên cứu này đưa đến kết luận là những alkaloids trích từ Mãng cầu xiêm có thể có tác dụng điều hợp chức năng cùng sự thay đổi để sinh tồn của các tế bào thần kinh dopaminergic trong các thử nghiệm “in vitro” và rất có thể có những liên hệ tác hại giữa việc dùng mãng cầu xiêm ở lượng cao và liên tục với những suy thoái về tế bào thần kinh. Do đó bệnh nhân Parkinson, do yếu tố an toàn nên tránh ăn mãng cầu xiêm! (Movement Disorders Số 17-2002).
* Độc tính và Liều lượng
Theo tài liệu của Herbal Secrets of the Rain Forest:
Liều trị liệu của lá (cũng chứa lượng acetrogenins khá cao, so với rễ và hạt) là 2-3 gram chia làm 3-4 lần/ ngày. Trên thị trường Hoa Kỳ có một số chế phẩm, mang tên Graviola, dưới các dạng viên nang (capsule) và thuốc tincture.
Không nên dùng các chế phẩm làm từ Lá, rễ và hạt Mãng cầu xiêm (phần thịt của quả không bị hạn chế) trong các trường hợp:
- Có thai: do hoạt tính gây co thắt tử cung khi thử trên chuột.
- Huyết áp cao: Lá, Rễ và Hạt có tác dụng gây hạ huyết áp, ức chế tim, người dùng thuốc trị áp huyết cần bàn với BS điều trị.
- Khi dùng lâu dài các chế phẩm Graviola có thể gây các rối loạn về vi sinh vật trong đường ruột.
- Một số trường hợp bị ói mửa, buồn nôn khi dùng Graviola, trong trường hợp này nên giảm bớt liều sử dụng.
- Không nên dùng Graviola chung với CoEnzyme Q 10 (một trong những cơ chế hoạt động của acetogenins là ngăn chặn sự cung cấp ATP cho tế bào ung thư, và CoEnzym Q.10 là một chất cung cấp ATP), uống chung sẽ làm giảm công hiệu của cả 2 loại.
Tài liệu sử dụng:
Whole Foods Companion (D. Onstad),
The Oxford Companion to Food (A. Davidson),
Medicinal Plants of India (Jain & DeFilipps),
Herbal Secrets of the Rain Forest (Leslie Taylor),
Các tài liệu của PubMed.,
Các tài liệu của Rain-tree.com/graviola htm,
Từ điển Cây Thuốc Việt Nam (Võ văn Chi)
Tiến sĩ Dược Khoa Trần Việt Hưng
http://www.tapchithegioimoi.com/tm.php?recordID=2949
* Dược tính của Mãng cầu xiêm
Các nhà khoa học đã nghiên cứu về dược tính của Mãng cầu xiêm từ 1940 và ly trích được nhiều hoạt chất. Một số các nhgiên cứu sơ khởi được công bố trong khoảng thời gian 1940 đến 1962 ghi nhận vỏ, thân và lá mãng cầu xiêm có những tác dụng làm hạ huyết áp, chống co giật, làm giãn nở mạch máu, thư giãn cơ trơn khi thử trên thú vật. Đến 1991, tác dụng hạ huyết áp của lá mãng cầu xiêm đã được tái xác nhận. Các nghiên cứu sau đó đã chứng minh được là dịch chiết từ lá, vỏ thân, rễ, chồi và hạt mãng cầu xiêm có những tác dụng kháng sinh chống lại một số vi khuẩn gây bệnh, và vỏ cây có khả năng chống nấm...
Hoạt tính của các acetogenins: Trong một chương trình nghiên cứu về dược thảo của National Cancer Institute vào năm 1976, lá và chồi của mãng cầu xiêm được ghi nhận là có hoạt tính diệt các tế bào của một số loại ung thư. Hoạt tính này được cho là do ở nhóm hợp chất, đặt tên là annonaceous acetogenins.
Các nghiên cứu về acetogenins cho thấy những chất này có khả năng ức chế rất mạnh Hỗn hợp phức tạp I (Complex I) ở trong các hệ thống chuyển vận electron nơi ty thể (mitichondria) kể cả của tế bào ung thư : các cây của gia đình Anonna có chứa nhiều loại acetogenins hoạt tính rất mạnh, một số có tác dụng diệt tế bào u-bướu ở nồng độ EC50 rất thấp, ngay ở 10-9 microgram/ mL.
Trường ĐH Purdue là nơi có nhiều nghiên cứu nhất về hoạt tính của gia đình Annona, và giữ hàng chục bản quyền về acetogenins, và công bố khá nhiều thí nghiệm lâm sàng về tác dụng của acetogenins trên ung thư, diệt bướu ung độc.
Một nghiên cứu năm 1998 ghi nhận một loại acetogenin trích từ Mãng cầu xiêm có tác dụng chọn lựa, diệt được tế bào ung thư ruột già loại adenocarcinoma, tác dụng này mạnh gấp 10 ngàn lần adriamycin.
Theo các kết quả nghiên cứu tại Purdue thì “Các acetogenins từ annonaceae, là những acid béo có dây carbon dài từ 32-34, phối hợp với một đơn vị 2-propanol tại C-2 để tạo thành một vòng lactone. Acetogenins có những hoạt tính sinh học như chống u-bướu, kích ứng miễn nhiễm, diệt sâu bọ, chống protozoa, diệt giun sán và kháng sinh. Acetogenins là những chất ức chế rất mạnh NADH: Ubiquinone oxidoreductase, vốn là một enzym căn bản cần thiết cho complex I đưa đến phản ứng phosphoryl-oxid hóa trong mitochondria. Acetogenins tác dụng trực tiếp vào các vị trí ubiquinone-catalytic nằm trong complex I và ngay vào men glucose dehydrogenase của vi trùng. Acetogenins cũng ức chế men ubiquinone-kết với NADH oxidase, chỉ có nơi màng plasma của tế bào ung thư (Recent Advances in Annonaceous Acetogenins-Purdue University -1997)”.
Các acetogenins Muricoreacin và Muricohexocin có những hoạt tính diệt bào khá mạnh trên 6 loại tế bào ung thư như Ung thư prostate loại adenocarcinoma (PC-3), Ung thư lá lách loại carcinoma (PACA-2) (ĐH Purdue, West LaFayette, IN- trong Phytochemistry số 49-1998)
Một acetogenin khác, Bullatacin có khả năng diệt được các tế bào ung thư đã kháng được nhiều thuốc dùng trong hóa-chất trị liệu, do ở hoạt tính ngăn chận sự chế tạo Adenosine triphosphate (ATP) cần thiết cho hoạt động của tế bào ung thư (Cancer Letter June 1997).
Các acetogenins trích từ lá Annomutacin, cùng các hợp chất loại annonacin-A-one có hoạt tính diệt được tế bào ung thư phổi dòng A-549 (Journal of Natural Products Số Tháng 9-1995).
Các dược tính khác
Các alkaloid: annonaine, nornuciferine và asimilobine trích được từ quả có tác dụng an thần và trị đau. Hoạt tính này do ở khả năng ức chế sự nối kết của [3H] rauwolscine vào các thụ thể 5-HT1A nằm trong phần yên của não bộ. (Journal of Pharmacy and Pharmacology Số 49-1997).
Dịch chiết từ quả bằng ethanol có tác dụng ức chế được siêu vi trùng Herpes Simplex (HSV-1) ở nồng độ 1mg/ml (Journal of Ethnopharmacology Số 61-1998).
Các dịch chiết bằng hexane, ethyl acetate và methanol từ quả đều có những hoạt tính diệt được ký sinh trùng Leishmania braziliensis và L.panamensis (tác dụng này còn mạnh hơn cả chất Glucantime dùng làm tiêu chuẩn đối chiếu). Ngoài ra các acetogenins cô lập được annonacein, annonacin A và annomuricin A có các hoạt tính gây độc hại cho các tế bào ung thư dòng U-937 (Fitotherapia Số 71-2000).
Thử nghiệm tại ĐH Universidade Federal de Alagoas, Maceio-AL, Ba Tây ghi nhận dịch chiết từ lá bằng ethanol có khả năng diệt được nhuyến thể (ốc-sò) loài Biomphalaria glabrata ở nồng độ LD50 = 8.75 ppm, và có thêm đặc điểm là diệt được các tụ khối trứng của sên (Phytomedicine Số 8-2001).
Một lectin loại glycoproteine chứa 8% carbohydrate, ly trích từ hạt có hoạt tính kết tụ hồng huyết cầu cũa người, ngỗng, ngựa và gà, đồng thời ức chế được sự tăng trưởng của các nấm và mốc loại Fusarium oxysoporum, Fusarium solani và Colletotrichum musae (Journal of Protein Chemistry Số 22-2003).
* Mãng cầu xiêm và bệnh Parkinson
Tại vùng West Indies thuộc Pháp, nhất là ở Guadaloupe có tình trạng xẩy ra bất thường về con số các bệnh nhân bị bệnh Parkinson, loại kháng-levo dopa: những bệnh nhân này đều tiêu thụ một lượng cao, và trong một thời gian lâu dài Soursop hay Mãng cầu xiêm (A.muricata).
Những nghiên cứu sơ khởi trong năm 1999 (công bố trên tạp chí Lancet Số 354, ngày 23 tháng 10 năm 1999) trên 87 bệnh nhân đưa đến kết luận là rất có thể có sự liên hệ giữa dùng nhiều mãng cầu xiêm, vốn có chứa các alkaloids loại benzyltetrahydroisoquinoleine độc hại về thần kinh. Nhóm bệnh nhân có những triệu chứng Parkinson không chuyên biệt (atipycal), gồm 30 người dùng khá nhiều mãng cầu trong cách ăn uống hàng ngày.
Nghiên cứu sâu rộng hơn vào năm 2002, cũng tại Guadeloupe, nhằm vào nhóm bệnh nhân Parkinson (atypical) cho thấy khi tách riêng các tế bào thần kinh (neuron) loại mesencephalic dopaminergic và cấy trong môi trường có chứa dịch chiết toàn phần rễ mãng cầu xiêm, hoặc chứa các hoạt chất cô lập như coreximinine, reticuline , có các kết quả như sau: Sau 24 giờ tiếp xúc 50% các tế bào thần kinh cấy bị suy thoái ở nồng độ 18 microg/ml dịch chiết toàn phần; 4.3 microg/ml coreximine và 100 microg/ml reticuline. Nghiên cứu này đưa đến kết luận là những alkaloids trích từ Mãng cầu xiêm có thể có tác dụng điều hợp chức năng cùng sự thay đổi để sinh tồn của các tế bào thần kinh dopaminergic trong các thử nghiệm “in vitro” và rất có thể có những liên hệ tác hại giữa việc dùng mãng cầu xiêm ở lượng cao và liên tục với những suy thoái về tế bào thần kinh. Do đó bệnh nhân Parkinson, do yếu tố an toàn nên tránh ăn mãng cầu xiêm! (Movement Disorders Số 17-2002).
* Độc tính và Liều lượng
Theo tài liệu của Herbal Secrets of the Rain Forest:
Liều trị liệu của lá (cũng chứa lượng acetrogenins khá cao, so với rễ và hạt) là 2-3 gram chia làm 3-4 lần/ ngày. Trên thị trường Hoa Kỳ có một số chế phẩm, mang tên Graviola, dưới các dạng viên nang (capsule) và thuốc tincture.
Không nên dùng các chế phẩm làm từ Lá, rễ và hạt Mãng cầu xiêm (phần thịt của quả không bị hạn chế) trong các trường hợp:
- Có thai: do hoạt tính gây co thắt tử cung khi thử trên chuột.
- Huyết áp cao: Lá, Rễ và Hạt có tác dụng gây hạ huyết áp, ức chế tim, người dùng thuốc trị áp huyết cần bàn với BS điều trị.
- Khi dùng lâu dài các chế phẩm Graviola có thể gây các rối loạn về vi sinh vật trong đường ruột.
- Một số trường hợp bị ói mửa, buồn nôn khi dùng Graviola, trong trường hợp này nên giảm bớt liều sử dụng.
- Không nên dùng Graviola chung với CoEnzyme Q 10 (một trong những cơ chế hoạt động của acetogenins là ngăn chặn sự cung cấp ATP cho tế bào ung thư, và CoEnzym Q.10 là một chất cung cấp ATP), uống chung sẽ làm giảm công hiệu của cả 2 loại.
Tài liệu sử dụng:
Whole Foods Companion (D. Onstad),
The Oxford Companion to Food (A. Davidson),
Medicinal Plants of India (Jain & DeFilipps),
Herbal Secrets of the Rain Forest (Leslie Taylor),
Các tài liệu của PubMed.,
Các tài liệu của Rain-tree.com/graviola htm,
Từ điển Cây Thuốc Việt Nam (Võ văn Chi)
Tiến sĩ Dược Khoa Trần Việt Hưng
http://www.tapchithegioimoi.com/tm.php?recordID=2949
Saturday, June 25, 2011
Thursday, June 23, 2011
Sunday, June 19, 2011
4 nguyên nhân khiến thân dưới phát phì
4 nguyên nhân khiến thân dưới phát phì
Chủ nhật - 06/19/2011 00:10
Text size
Planets
Share this story
Share on Facebook Share on Twitter Share on Google Share on Buzz
Story tools
Email print
Bụng dưới béo phệ, chân to, thô vv… muốn làm cho mỡ ở các chỗ này biến mất thì chúng ta nên hiểu rõ 4 nguyên nhân gây ra béo phì sau đây.
1935576665_beobung18611_4d5c4.jpg
Rối loại nội tiết
Estrogen là một nguyên nhân cốt lõi làm cho phần thân dưới của chị em béo phì. Bụng bữa đói bữa no, tùy tiện uống thuốc giảm béo, mang thai ngoài ý muốn vv đều làm cho estrogen bài tiết hỗn loạn, từ đó làm cho chất béo tích tụ lại ở phần bụng và phần đùi, phần dưới cơ thể ngày càng béo.
Vì vậy, ăn uống đúng giờ, không nên tùy tiện uống thuốc giảm béo và tích cực phòng tránh thai… đây đều là các biện pháp quan trọng để ngăn chặn béo phì ở thân dưới, đặc biệt là thuốc tránh trai.
Đa phần mọi người nghĩ rằng uống thuốc tránh thai lâu dài sẽ gây ra béo phì, thực ra đây là hiểu nhầm. Các loại thuốc tránh thai cũ trước đây có hàm lượng estrogen cao, uống trong thời gian lâu dài sẽ làm cho chất béo tích tụ trong cơ thể. Tuy nhiên, mấy năm gần đây thuốc uống tránh thai mới đã có cải tiến rõ rệt, hàm lượng estrogen từ 150mg giảm xuống còn 30mg, thậm chí còn 20mg, loại thuốc tránh trai có hàm lượng estrogen thấp này hoàn toàn không thể làm cho chúng ta béo phì.
Ngồi khoanh chân vòng tròn
Nếu bạn ngồi khép chân cả một ngày thì sẽ gây trở ngại cho tuần hoàn máu và bạch huyết, làm cho thân dưới sưng phù. Nếu chúng ta không chú ý bảo vệ và chữa trị ví dụ như mát-xa thì tĩnh mạch chân dưới sẽ dần dần nổi lên, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến tuần hoàn thân dưới, làm cho chất béo tăng lên, đến bắp thịt cũng sẽ trở nên xơ cứng.
Vì vậy, chúng ta phải thay đổi thói quen không ngồi ở tư thế “xếp vàng”, không nên ngồi lâu không vận động. Ngoài ra chúng ta cần tích cực mát-xa thân dưới. Hàng ngày sau khi tắm nước nóng xong, dùng tinh dầu mát-xa chân dưới và bàn chân, ấn các huyệt ở dưới bàn chân, như thế đều có thể kịp thời làm giảm đi sưng phù ở thân dưới, ngăn chặn mỡ, chất béo tích tụ.
Mặc quần áo quá chặt
Quần bò quá chặt, quần áo bó sát, thậm chí là cả váy ngắn mặc dù mặc vào làm tôn lên nét gợi cảm của người phụ nữ nhưng lại dễ làm cho thân dưới bị béo phì, bởi vì quần áo quá bó sát người sẽ gây trở ngại cho sự vận động bình thường của chân, đồng thời làm cho máu vùng chân, eo tuần hoàn khó khăn. Váy ngắn lại làm cho chân dễ bị lạnh và cũng ảnh hưởng đến tuần hoàn máu, làm cho chất béo tích tụ. Vì vậy muốn ngăn chặn béo phì ở thân dưới nhất định phải giữ ấm cho phần chân, không nên mặc quần áo quá ngắn quá bó sát người.
Đi “nghiêng ngả”
Bình thường không có thời gian vận động, đi bộ khi đi làm và về nhà có thể giúp chúng ta luyện tập sức khỏe. Tuy nhiên nếu tư thế đi bộ không đúng hoặc đi dày không vừa vặn thì không những không giúp chúng ta giảm béo mà còn làm cho chúng ta béo hơn, thậm chí ảnh hưởng đến sức khỏe vùng chân.
Ví dụ đi bộ lững thững thì không thể hoàn toàn thiêu đốt chất béo cùng chân, ngược lại còn làm cho chân dưới càng trở nên to, thô.
Tư thế đi bộ chính xác là gót chân phải chạm đất, đầu bàn chân có cảm giác chạm đất, tốt nhất khi đi giày cao gót không nên đi nhanh, nếu không sẽ làm cho đôi chân chịu càng nhiều áp lực, đến cả xương sống cũng theo đó mệt theo,ngoài ra còn kèm theo cả đau lưng, nhức eo vv.
http://clickvao.com/news/others/4-nguyen-nhan-khien-than-duoi-phat-phi-29694/
Chủ nhật - 06/19/2011 00:10
Text size
Planets
Share this story
Share on Facebook Share on Twitter Share on Google Share on Buzz
Story tools
Email print
Bụng dưới béo phệ, chân to, thô vv… muốn làm cho mỡ ở các chỗ này biến mất thì chúng ta nên hiểu rõ 4 nguyên nhân gây ra béo phì sau đây.
1935576665_beobung18611_4d5c4.jpg
Rối loại nội tiết
Estrogen là một nguyên nhân cốt lõi làm cho phần thân dưới của chị em béo phì. Bụng bữa đói bữa no, tùy tiện uống thuốc giảm béo, mang thai ngoài ý muốn vv đều làm cho estrogen bài tiết hỗn loạn, từ đó làm cho chất béo tích tụ lại ở phần bụng và phần đùi, phần dưới cơ thể ngày càng béo.
Vì vậy, ăn uống đúng giờ, không nên tùy tiện uống thuốc giảm béo và tích cực phòng tránh thai… đây đều là các biện pháp quan trọng để ngăn chặn béo phì ở thân dưới, đặc biệt là thuốc tránh trai.
Đa phần mọi người nghĩ rằng uống thuốc tránh thai lâu dài sẽ gây ra béo phì, thực ra đây là hiểu nhầm. Các loại thuốc tránh thai cũ trước đây có hàm lượng estrogen cao, uống trong thời gian lâu dài sẽ làm cho chất béo tích tụ trong cơ thể. Tuy nhiên, mấy năm gần đây thuốc uống tránh thai mới đã có cải tiến rõ rệt, hàm lượng estrogen từ 150mg giảm xuống còn 30mg, thậm chí còn 20mg, loại thuốc tránh trai có hàm lượng estrogen thấp này hoàn toàn không thể làm cho chúng ta béo phì.
Ngồi khoanh chân vòng tròn
Nếu bạn ngồi khép chân cả một ngày thì sẽ gây trở ngại cho tuần hoàn máu và bạch huyết, làm cho thân dưới sưng phù. Nếu chúng ta không chú ý bảo vệ và chữa trị ví dụ như mát-xa thì tĩnh mạch chân dưới sẽ dần dần nổi lên, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến tuần hoàn thân dưới, làm cho chất béo tăng lên, đến bắp thịt cũng sẽ trở nên xơ cứng.
Vì vậy, chúng ta phải thay đổi thói quen không ngồi ở tư thế “xếp vàng”, không nên ngồi lâu không vận động. Ngoài ra chúng ta cần tích cực mát-xa thân dưới. Hàng ngày sau khi tắm nước nóng xong, dùng tinh dầu mát-xa chân dưới và bàn chân, ấn các huyệt ở dưới bàn chân, như thế đều có thể kịp thời làm giảm đi sưng phù ở thân dưới, ngăn chặn mỡ, chất béo tích tụ.
Mặc quần áo quá chặt
Quần bò quá chặt, quần áo bó sát, thậm chí là cả váy ngắn mặc dù mặc vào làm tôn lên nét gợi cảm của người phụ nữ nhưng lại dễ làm cho thân dưới bị béo phì, bởi vì quần áo quá bó sát người sẽ gây trở ngại cho sự vận động bình thường của chân, đồng thời làm cho máu vùng chân, eo tuần hoàn khó khăn. Váy ngắn lại làm cho chân dễ bị lạnh và cũng ảnh hưởng đến tuần hoàn máu, làm cho chất béo tích tụ. Vì vậy muốn ngăn chặn béo phì ở thân dưới nhất định phải giữ ấm cho phần chân, không nên mặc quần áo quá ngắn quá bó sát người.
Đi “nghiêng ngả”
Bình thường không có thời gian vận động, đi bộ khi đi làm và về nhà có thể giúp chúng ta luyện tập sức khỏe. Tuy nhiên nếu tư thế đi bộ không đúng hoặc đi dày không vừa vặn thì không những không giúp chúng ta giảm béo mà còn làm cho chúng ta béo hơn, thậm chí ảnh hưởng đến sức khỏe vùng chân.
Ví dụ đi bộ lững thững thì không thể hoàn toàn thiêu đốt chất béo cùng chân, ngược lại còn làm cho chân dưới càng trở nên to, thô.
Tư thế đi bộ chính xác là gót chân phải chạm đất, đầu bàn chân có cảm giác chạm đất, tốt nhất khi đi giày cao gót không nên đi nhanh, nếu không sẽ làm cho đôi chân chịu càng nhiều áp lực, đến cả xương sống cũng theo đó mệt theo,ngoài ra còn kèm theo cả đau lưng, nhức eo vv.
http://clickvao.com/news/others/4-nguyen-nhan-khien-than-duoi-phat-phi-29694/
Tuesday, June 14, 2011
Thêm 19 loại nước giải khát có chất gây ung thư
Thêm 19 loại nước giải khát có chất gây ung thư
Monday, June 13, 2011 1:56:47 PM Bookmark and Share
SÀI GÒN (TH) - Việc khám phá nhiều loại thức uống giải khát có chứa chất làm dẻo, tạo đục DEHP gây ung thư khiến người tiêu thụ Việt Nam hoang mang ngày càng lan rộng.
Ðợt khám phá này khởi đầu hôm 1 tháng 6, 2011 với loại thạch rau câu khoai môn Taro của công ty New Choice Foods nhập cảng từ Ðài Loan.
Ðồng thời với lệnh thu hồi trên 6,000 thùng thạch rau câu Taro đang được bày bán tại hàng trăm cửa hàng, chợ khắp đất nước Việt Nam, người ta lại tiếp tục khám phá trên hàng chục loại thực phẩm, nước giải khát có chứa DEHP.
Theo VTC News, chiều 12 tháng 6, Chi Cục An Toàn Vệ Sinh Thực Phẩm tại Sài Gòn lại công bố tin vừa tìm thấy DEHP trong 19 loại nước giải khát nhập cảng từ Ðài Loan. Ðó là nước ép chanh dây, xoài và trái vải do công ty Nhất Phú Quý, quận 3 nhập cảng. Mười sáu loại thức uống còn lại có chứa DEHP do công ty Hà Thành nhập cảng gồm xi rô dâu, kiwi, táo xanh nho, vải, chanh, dưa gang, bách hương, đào, cam, xí muội, xoài, thơm, táo đỏ, lựu, dâu lam.
Trong khi đó, báo Lao Ðộng đưa tin nói rằng Cục Quản Lý Dược thuộc Bộ Y Tế Cộng Sản Việt Nam cũng đã yêu cầu công ty GlaxoSmithKline (GSK) thu hồi thuốc trụ sinh Augmentin dạng bột có pha xi rô do Anh Quốc và Pháp sản xuất vì có DEHP.
Ðại diện cục quản lý này cho rằng tuy liều lượng chất tạo dẻo chứa trong thuốc không vượt giới hạn cho phép nhưng nhà sản xuất không công bố chất phụ gia độc hại này trong thành phần công thức chế tạo.
Có thể nói, chưa bao giờ chất DEHP tạo dẻo gây ung thư lại được chú ý nhiều như thế. Nhưng người ta e rằng việc thu hồi các sản phẩm có DEHP cũng như việc thông tin rộng rãi trong nước không được thực hiện đến nơi đến chốn. (P.L.)
http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/templates/?a=132453&z=2
Monday, June 13, 2011 1:56:47 PM Bookmark and Share
SÀI GÒN (TH) - Việc khám phá nhiều loại thức uống giải khát có chứa chất làm dẻo, tạo đục DEHP gây ung thư khiến người tiêu thụ Việt Nam hoang mang ngày càng lan rộng.
Ðợt khám phá này khởi đầu hôm 1 tháng 6, 2011 với loại thạch rau câu khoai môn Taro của công ty New Choice Foods nhập cảng từ Ðài Loan.
Ðồng thời với lệnh thu hồi trên 6,000 thùng thạch rau câu Taro đang được bày bán tại hàng trăm cửa hàng, chợ khắp đất nước Việt Nam, người ta lại tiếp tục khám phá trên hàng chục loại thực phẩm, nước giải khát có chứa DEHP.
Theo VTC News, chiều 12 tháng 6, Chi Cục An Toàn Vệ Sinh Thực Phẩm tại Sài Gòn lại công bố tin vừa tìm thấy DEHP trong 19 loại nước giải khát nhập cảng từ Ðài Loan. Ðó là nước ép chanh dây, xoài và trái vải do công ty Nhất Phú Quý, quận 3 nhập cảng. Mười sáu loại thức uống còn lại có chứa DEHP do công ty Hà Thành nhập cảng gồm xi rô dâu, kiwi, táo xanh nho, vải, chanh, dưa gang, bách hương, đào, cam, xí muội, xoài, thơm, táo đỏ, lựu, dâu lam.
Trong khi đó, báo Lao Ðộng đưa tin nói rằng Cục Quản Lý Dược thuộc Bộ Y Tế Cộng Sản Việt Nam cũng đã yêu cầu công ty GlaxoSmithKline (GSK) thu hồi thuốc trụ sinh Augmentin dạng bột có pha xi rô do Anh Quốc và Pháp sản xuất vì có DEHP.
Ðại diện cục quản lý này cho rằng tuy liều lượng chất tạo dẻo chứa trong thuốc không vượt giới hạn cho phép nhưng nhà sản xuất không công bố chất phụ gia độc hại này trong thành phần công thức chế tạo.
Có thể nói, chưa bao giờ chất DEHP tạo dẻo gây ung thư lại được chú ý nhiều như thế. Nhưng người ta e rằng việc thu hồi các sản phẩm có DEHP cũng như việc thông tin rộng rãi trong nước không được thực hiện đến nơi đến chốn. (P.L.)
http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/templates/?a=132453&z=2
Nước Ép Carrot : Giúp Bạn Giảm Cân và Phòng ngừa Nhiều Bệnh
Nước Ép Carrot : Giúp Bạn Giảm Cân và Phòng ngừa Nhiều Bệnh
Một câu chuyện rất cảm động trong cuộc thi Korean’Các công trình nghiên cứu cho biết nước ép Carrot giúp giảm các nguy cơ mắc bệnh ung thư da và ung thư vú . Khả năng phòng ngừa các căn bệnh ung thư từ củ Carrot được các chuyên gia đánh giá xuất sắc vì chúng chứa hàm lượng Beta Carotene rất cao. Beta Carotene khi vào cơ thể sẽ chuyển hóa thành Vitamin A. Các nghiên cứu đã kết nối Vitamin A với công tác phòng chống ung thư bởi các thành phần Antioxidant bên trong Carrot có thể giúp đào thải các gốc tự do (free radicals), chính các gốc tự do này là nguyên nhân gây ra căn bệnh ung thư trong cơ thể.
Các chuyên gia dinh dưỡng cho biết Nước ép Carrot là một trong những loại nước uống bổ dưỡng nhất cho sức khỏe . Carrot chứa nhiều nguồn Beta Carotene, khi nạp vào cơ thể sẽ cung cấp nhiều Vitamin A , Vitamin B, Vitamin E và các khoán chất. Uống nước ép carrot sẽ mang đến sức khỏe tốt cho các sản phụ trước khi sinh, giúp bạn có đôi mắt sáng, giúp chắc xương và răng, giúp làn da mịn màng, bóng tóc, cũng như giúp phòng chống các căn bệnh ung thư.
Thiếu hụt Vitamin A có thể gây khô và làm tổn thương da, móng tay và tóc. Uống nước ép Carrot để bổ sung Vitamin A từ thiên nhiên được cho là mang đến nhiều lợi ích cho sức khỏe.
Uống nước ép Carrot rất có lợi cho gan do tác dụng làm sạch gan từ Vitamin A. Vitamin A làm giảm mật (bile) và chất béo trong gan. Tuy nhiên, đối với gan để gặt hái những lợi ích tối đa của Vitamin A, việc uống nước ép Carrot cần được thực hiện thường xuyên hơn là thỉnh thoảng nhưng ở mức độ vừa phải bởi quá liều sẽ gây ra tình trạng vàng da. Gan có thể lưu giữ Vitamin A.
Uống nước ép Carrot cũng là cách để cải thiện thị lực cho mắt do Vitamin A tạo ra trong cơ thể, nhưng bạn cũng không nên dùng quá nhiều dễ gây ra hiện tượng vàng mắt.
Uống nước ép Carrot hoặc ăn Carrot được cho là đặc biệt có lợi cho sức khỏe trước khi sinh. Beta-carotene vào cơ thể chuyển hóa thành Vitamin A được cho là rất lành mạnh cho cả mẹ và con.
Carrot càng có màu sắc đậm thì chúng càng chứa nhiều Beta Carotene. Nước ép Carrot chứa nhiều tinh chất đường thiên nhiên (natural sugar), vì vậy những bạn bị mắc bệnh tiểu đường cũng nên tham khảo ý kiến bác sĩ về việc này . Uống nước ép Carrot cũng rất tốt cho sức khoẻ sinh sản do thành phần của chúng có chứa Vitamin E thiên nhiên.
Tin vui từ các nhà nghiên cứu : Carrot juice có thể giúp bạn giảm cân, chúng thực sự là một loại nước ép trái cây có hương vị thơm ngon tuyệt vời. Carrots rất giàu Beta Carotene, Vitamin B1, B2, C, D, E, K, Acid Folic, Calcium, và nhiều chất xơ…Carrot được xem như một loại multi-vitamin. Uống một ít nước ép Carrot mỗi ngày để nâng cao khả năng trao đổi chất, chuyển hóa chất béo trong cơ thể, nó sẽ tự nhiên làm giảm trọng lượng mỡ thừa trong cơ thể bạn. Ngoài ra, nó có thể được điều trị táo bón, cảm lạnh, tăng cường thị lực. Ngoài ra, nước ép cà rốt cũng có thể ức chế thực phẩm đồ ngọt hoặc thực phẩm có dầu mỡ, nhưng bạn cũng cần nên hạn chế những thực phẩm đồ ngọt và thực phẩm nhiều dầu mỡ để quá trình giảm cân được nhanh hơn. Những bạn không bị giới hạn chế độ ăn uống, hãy sử dụng nước ép cà rốt trong 8 tháng để loại bỏ chất béo (Webforweightloss).
Carrot juice to lose weight for summer MM, it is really a delicious vegetable juice, and it can inhibit eating sweets or greasy food desires. Some people do not even restricted diet, but also to make use of carrot juice in the eight months to get rid of fat.
Carrots rich in carotene, and vitamin B1, B2, C, D, E, K, folic acid, calcium and dietary fiber and so on, almost comparable with the multi-vitamin, drink a little carrot juice every day to improve the metabolic capacity, it will naturally reduce the weight.
In addition, it can be treated constipation, colds, strengthen vision. Even those who are lazy to lose weight, you can easily carry out such a diet to lose weight, and body side can be adjusted, side to maintain health. In addition, carrot juice can also inhibit eating sweets or greasy food desires. Some people do not even restricted diet, but also to make use of carrot juice in the eight months to get rid of fat. (Webforweightloss.com)
Lưu Ly (source : WiseGeek.com, Webforweightloss.com)
http://www.baocalitoday.com/index.php?option=com_content&view=article&id=2327:nc-ep-carrot-giup-bn-gim-can-va-phong-nga-nhiu-bnh-&catid=7:gia-inh-giao-dc&Itemid=55
Một câu chuyện rất cảm động trong cuộc thi Korean’Các công trình nghiên cứu cho biết nước ép Carrot giúp giảm các nguy cơ mắc bệnh ung thư da và ung thư vú . Khả năng phòng ngừa các căn bệnh ung thư từ củ Carrot được các chuyên gia đánh giá xuất sắc vì chúng chứa hàm lượng Beta Carotene rất cao. Beta Carotene khi vào cơ thể sẽ chuyển hóa thành Vitamin A. Các nghiên cứu đã kết nối Vitamin A với công tác phòng chống ung thư bởi các thành phần Antioxidant bên trong Carrot có thể giúp đào thải các gốc tự do (free radicals), chính các gốc tự do này là nguyên nhân gây ra căn bệnh ung thư trong cơ thể.
Các chuyên gia dinh dưỡng cho biết Nước ép Carrot là một trong những loại nước uống bổ dưỡng nhất cho sức khỏe . Carrot chứa nhiều nguồn Beta Carotene, khi nạp vào cơ thể sẽ cung cấp nhiều Vitamin A , Vitamin B, Vitamin E và các khoán chất. Uống nước ép carrot sẽ mang đến sức khỏe tốt cho các sản phụ trước khi sinh, giúp bạn có đôi mắt sáng, giúp chắc xương và răng, giúp làn da mịn màng, bóng tóc, cũng như giúp phòng chống các căn bệnh ung thư.
Thiếu hụt Vitamin A có thể gây khô và làm tổn thương da, móng tay và tóc. Uống nước ép Carrot để bổ sung Vitamin A từ thiên nhiên được cho là mang đến nhiều lợi ích cho sức khỏe.
Uống nước ép Carrot rất có lợi cho gan do tác dụng làm sạch gan từ Vitamin A. Vitamin A làm giảm mật (bile) và chất béo trong gan. Tuy nhiên, đối với gan để gặt hái những lợi ích tối đa của Vitamin A, việc uống nước ép Carrot cần được thực hiện thường xuyên hơn là thỉnh thoảng nhưng ở mức độ vừa phải bởi quá liều sẽ gây ra tình trạng vàng da. Gan có thể lưu giữ Vitamin A.
Uống nước ép Carrot cũng là cách để cải thiện thị lực cho mắt do Vitamin A tạo ra trong cơ thể, nhưng bạn cũng không nên dùng quá nhiều dễ gây ra hiện tượng vàng mắt.
Uống nước ép Carrot hoặc ăn Carrot được cho là đặc biệt có lợi cho sức khỏe trước khi sinh. Beta-carotene vào cơ thể chuyển hóa thành Vitamin A được cho là rất lành mạnh cho cả mẹ và con.
Carrot càng có màu sắc đậm thì chúng càng chứa nhiều Beta Carotene. Nước ép Carrot chứa nhiều tinh chất đường thiên nhiên (natural sugar), vì vậy những bạn bị mắc bệnh tiểu đường cũng nên tham khảo ý kiến bác sĩ về việc này . Uống nước ép Carrot cũng rất tốt cho sức khoẻ sinh sản do thành phần của chúng có chứa Vitamin E thiên nhiên.
Tin vui từ các nhà nghiên cứu : Carrot juice có thể giúp bạn giảm cân, chúng thực sự là một loại nước ép trái cây có hương vị thơm ngon tuyệt vời. Carrots rất giàu Beta Carotene, Vitamin B1, B2, C, D, E, K, Acid Folic, Calcium, và nhiều chất xơ…Carrot được xem như một loại multi-vitamin. Uống một ít nước ép Carrot mỗi ngày để nâng cao khả năng trao đổi chất, chuyển hóa chất béo trong cơ thể, nó sẽ tự nhiên làm giảm trọng lượng mỡ thừa trong cơ thể bạn. Ngoài ra, nó có thể được điều trị táo bón, cảm lạnh, tăng cường thị lực. Ngoài ra, nước ép cà rốt cũng có thể ức chế thực phẩm đồ ngọt hoặc thực phẩm có dầu mỡ, nhưng bạn cũng cần nên hạn chế những thực phẩm đồ ngọt và thực phẩm nhiều dầu mỡ để quá trình giảm cân được nhanh hơn. Những bạn không bị giới hạn chế độ ăn uống, hãy sử dụng nước ép cà rốt trong 8 tháng để loại bỏ chất béo (Webforweightloss).
Carrot juice to lose weight for summer MM, it is really a delicious vegetable juice, and it can inhibit eating sweets or greasy food desires. Some people do not even restricted diet, but also to make use of carrot juice in the eight months to get rid of fat.
Carrots rich in carotene, and vitamin B1, B2, C, D, E, K, folic acid, calcium and dietary fiber and so on, almost comparable with the multi-vitamin, drink a little carrot juice every day to improve the metabolic capacity, it will naturally reduce the weight.
In addition, it can be treated constipation, colds, strengthen vision. Even those who are lazy to lose weight, you can easily carry out such a diet to lose weight, and body side can be adjusted, side to maintain health. In addition, carrot juice can also inhibit eating sweets or greasy food desires. Some people do not even restricted diet, but also to make use of carrot juice in the eight months to get rid of fat. (Webforweightloss.com)
Lưu Ly (source : WiseGeek.com, Webforweightloss.com)
http://www.baocalitoday.com/index.php?option=com_content&view=article&id=2327:nc-ep-carrot-giup-bn-gim-can-va-phong-nga-nhiu-bnh-&catid=7:gia-inh-giao-dc&Itemid=55
Tuesday, June 7, 2011
La Hán Quả (LUO HAN GUO) - Vị ngọt cho người tiểu đường
La Hán Quả (LUO HAN GUO) - Vị ngọt cho người tiểu đường
Dược sĩ Trần Việt Hưng
Để thay thế cho đường miá (Cane sugar) không thích hợp cho người bị bệnh tiểu đường, một số chất tạo vị ngọt tổng hợp (như aspartame, saccharine, sucralose trong Splenda...) hay trích từ cây cỏ ( Stevia, Cam thảo...) đã được sử dụng và chất ngọt từ La hán quả có lẽ được ít người chú ý đến..
* Tên khoa học và các tên khác:
La hán quả là quả của cây Siraitia grosvernori, tên thực vật cũ là Momordica grosvernori hay Thladiantha grosvenorìi, thuộc họ thực vật Bầu bí (Cucurbitacea)
Các tên khác: Arhat fruit; Monk's fruit, longevity fruit, magic fruit, momordica fruit (tên này dễ gây nhầm với mướp đắng)
Tên La hán quả được giải thích là do những truyền thuyết từ Trung Hoa: từ thời Nhà Đường, Quế lâm là một Trung tâm của Phật giáo, có rất nhiều ngôi chùa. Các tu sĩ Phật giáo được cho là đã dùng quả của cây làm thực phẩm thường ngày nên đã giúp cơ thể dẻo dai, chống bệnh và trường thọ cùng luyện tập võ nghệ để phòng thân. Tên La hán quả cũng còn liên hệ đến những môn võ nghệ nổi tiếng như 'Thập bát La hán quyền', 'Thập bát La hán trận' của Chùa Thiếu Lâm...
Theo kinh điển Phật giáo thì trong Pháp trụ ký (Fachu-chi), Đại sư Khánh Hữu (Nan Đề Mật Đà La) đã ghi chép danh tánh, nơi cư trú và sứ mệnh của 16 Vị La hán, các Vị này đã đạt được Tam minh, Lục thông và Bát giải, vâng theo giáo chỉ của Đức Phật, kéo dài thọ mạng, trụ tại thế gian để hộ trì chánh pháp. Thiền sư Quán Hữu (832-912) đã vẽ ra hình ảnh của 16 Vị này (các hình ảnh này ngày nay vẫn còn nơi vách của Thiên Phật động tại Đôn Hoàng (Cam túc, Trung Hoa). Từ con số 16 ban đầu, có thêm thay đổi để thành 18 vị. Sự thay đổi này được giải thích là có thể do nhầm lẫn khi dịch kinh, nên thêm Vị Khánh Hữu và lập lại Vị Tân Đầu Lô... Tại Tây Tạng, 2 vị được thêm vào là Đạt Ma Đa la và Bố đại Hòa thượng. Thi hào Tô Đông Pha (1036-1101) đã làm 18 bài thơ, mỗi bài ca tụng 1 Vị và sau đó Họa sĩ Trương Huyền đã dựa vào các bài thơ này để tạc tượng 18 Vị La hán nhưng thay hai vị 17 và 18 bằng Tôn giả Ca Diếp và Quân Đề Bát Thán..
BS Nguyễn Lê Đức, một nhà nghiên cứu Phật học uyên thâm tại Jacksonville, Florida cho biết Chùa Đông đại Tự (Todaji) ở Nhật là ngôi chùa hoàn toàn bằng gỗ lớn nhất thế giới hiện còn tượng gỗ của Ngài Tân Đầu Lô giả (Pindolo) ở ngoài chùa mà khách thập phương đến lễ bái và tin rằng khi sờ vào chỗ nào trên thân thể Ngài thì bệnh đó trên mình sẽ hết (đau đâu sờ đó). Tân Đầu Lô là vị La hán duy nhất còn sống trên thế gian, vì Ngài bị Phật bắt ở lại để độ cho mọi người sau khi thi thố thần thông (làm phép) mà Đức Phật đã cấm.
Ngài Nagasena (Vị La hán số 12) được các Bác sĩ Tai-Mũi-Họng (ENT) Mỹ xem là Thánh Tổ. Nhiều Phật tử còn đeo xâu chuỗi La hán 18 hột, mỗi hột khắc 1 vị La hán tin rằng sẽ trừ được mọi tai nạn, bệnh tật..
Đặc tính thực vật:
Chi thực vật Siraitia còn có thêm 4 loài khác:
Siraitia siamensis phân bố tại Thái Lan.
S. sikkimensis và S. silomaradjea tại Ấn Độ
S. taiwaniana tại Đài Loan
Cây la hán thuộc loại dây leo, lưỡng niên, rụng lá có thể dài từ 3-5m, mọc phủ lên các cây khác bằng tua cuốn. Lá hẹp, hình trái tim, đầu nhọn dài 10-20 cm rộng 3.5-12cm. Hoa mọc thành chùm 2-3 hoa, hay cô độc, cuống hoa 3-5 cm. Cánh hoa mỏng, màu vàng nhạt Quả hình cầu, đường kính 5-7cm, màu xanh lục sẽ chuyển sang nâu khi khô, thịt mọng, có vị ngọt và mùi thơm trong chứa nhiều hạt nhỏ, dài chừng 15-18 mm, ngang 10-12mm.
Cây mọc hoang và được trồng tại vùng Tây-Nam Trung Hoa, phần lớn tại Quảng Đông, Quảng Tây, Quế Châu, Hồ Nam... đa số thành phẩm thương mãi là từ vùng cao nguyên Quế Lâm.
Các tài liệu ghi chép từ 1813 cho thấy cây đã được trồng tại Tỉnh Quảng Tây. Hiện nay tại vùng cao nguyên Quế Lâm có những đồn điền trồng la hán rộng trên 16 km vuông, cung cấp mỗi năm trên 10 ngàn quả. Thành phố Long Giang (Longjiang) được xem là ' Nhà của quả la hán' và đa số các Hãng dược phẩm sản xuất các thành phẩm từ la hán chọn thành phố này làm nơi đặt trụ sở.
(Tại Việt Nam, có một loài tương cận: Momerdica tonkinensis hay Thladiantha tonkinensis = Cây khố áo mọc tại Bắc Việt, quả chưa được nghiên cứu nhiều)
Thành phần hóa học:
-Quả chứa: Các đường hữu cơ như fructose, glucose...
Các terpene glycosides gọi chung là mogrosides trong đó một số chất đã xác định được công thức như Siomenoside I, Neo mogroside, Mogroside từ 1 đến 6 (Mogroside 5 chiếm từ 0.81 đến 1.29 %), Iso-mogroside-5, Oxo-mogroside-5
Các 28-Norcucurbitacins như Siraitic acid A,B,C,D và E
Hợp chất protein Monogrosvin có hoạt tính gây ngưng hoạt động của các ribosome.(Life Science Số 68-2001)
Chất ngọt từ quả La hán: Mogrosides
Quả La hán được thu hoạch lúc còn xanh, và chuyển sang màu đen sau khi được phơi khô. Vị ngọt của quả là do một nhóm glycosides loại terpen, gọi chung là mogrosides, chiếm khoảng 1 % phần thịt của quả, tính theo trọng lượng. Cả quả khô lẫn quả tươi đều được dùng để chiết, và cho một chất bột có thể chứa ít nhất là 80 % mogrosides. Các mogrosides đã được phân biệt và định danh từ 1 đến 5, chất chính là mogroside-5 (trước đây được gọi là esgoside). Một số hợp chất tương tự trong quả La hán được gọi là siamenoside, neomogroside..
Hỗn hợp mogrosides trong quả La hán cho vị ngọt cao hơn đường miá khoảng 300 lần (tính theo trọng lượng), như thế bột chiết 80 % sẽ ngọt hơn đường mía gấp 250 lần. Trong khi đó mogrosides nguyên chất có thể ngọt gấp 400 lần đường mía. Iso-mogroside-5 ngọt hơn đường khoảng 500 lần.
Năm 1995, Công ty Procter and Gamble đã cầu chứng một bằng sáng chế để chế tạo một chất ngọt từ quả La hán. Theo các mô tả trong Bằng sáng chế thì quả La hán, tự bản chất, tuy ngọt nhưng còn có kèm thêm khá nhiều vị khác nên không thể dùng trực tiếp làm chất tạo vị ngọt, và Công ty P&G đã phát minh ra một phương pháp chế biến để loại các vị không cần thiết. Mặt khác quả La hán rất ít khi được sử dụng dưới dạng quả tươi do các khó khăn trong việc tồn trữ, đồng thời vị của quả tươi cũng không hấp dẫn lắm, khi lên men còn tạo thêm các vị lạ và chất pectin trong quả lại chuyển sang dạng nhớt. Do đó quả thường phải phơi khô và đây là dạng được bán tại các tiệm thuốc bắc. Quả La hán được sấy khô trên chảo, giữ được quả lâu hơn và loại được một số hợp chât bốc hơi, nhưng lại tạo ra các vị đắng và chát. Các vị này giới hạn việc dùng quả trực tiếp và bột trích từ quả, nếu muốn dùng trong trà hay trong cháo thường phải kèm theo với đường mía hay mật ong. Trong phương thức chế biến của P&G, quả La hán được thu hái trước khi chín hẳn và được tồn trữ đến giai đoạn 'chín vừa đủ', sau đó loại bỏ hạt và vỏ, rồi nghiền nát để lấy nước cốt hay khối nhão và dùng các dung môi để loại các tạp chất và những mùi vị không cần đến... Hiện nay trên thị trường có bán một số sản phẩm tạo vị ngọt từ mogrosides..
Mogroside-5 tinh chế đã chính thức được phép dùng tại Nhật để làm chất tạo vị ngọt.
Các glycosides loại cucurbitane từ quả la hán đã được đánh giá về độ ngọt bằng cách dùng các thử nghiệm điện-tâm lý và phản ứng nhận định, thử trên bọ gerbil. Bọ được huấn luyện để biết tránh ăn chất ngọt từ đường mía và kết quả ghi nhận là Mogroside-5 có tác dụng kích thích các thụ thể vị giác gây các phản ứng thuận lợi của bọ, chấp nhận vị ngọt của mogrosides (Journal of Natural Products Sô 53-1990)
Các hoạt tính dược lực của glycosides trong quả La hán:
Ngoài vai trò dùng làm chất tạo vị ngọt, các glycosides trích từ quả La hán còn có một số dược tính khác như :
Làm hạ đường trong máu: Thử nghiệm trên chuột, chất trích thô từ quả và các glycosides loại triterpene của quả có khả ưng ức chế sự gia tăng độ glucose trong máu sau khi ăn, tác dụng xẩy ra rất nhanh: chỉ cần cho chuột dùng các chất này 3 phút trước khi cho chuột ăn maltose. Hiệu ứng được giải thích là do ức chế men maltase (Journal of Agricultural and Food Chemistry Số 53-2005). Trong một thử nghiệm khác, mogrosides được so sánh với một thuốc đặc chế XiaoKeWan= Tiêu khát hoàn, thường dùng để trị tiểu đường tại Trung hoa. Kết quả ghi nhận, mogrosides có khả năng giúp hạ tiểu đường, hạ lipid nơi chuột bị gây bệnh bằng alloxan (Nutrition Research Số 28-2008).
Hoạt tính chống oxy-hóa: Chất trích từ quả La hán và các glycosides như mogroside-4, mogroside-5, 11-oxo-mogrosi de-5, siamenoside.. ức chế được các tiến trình gây oxy-hóa loại do đồng làm trong gian, loại oxyhóa lipoprotein có phân tử lượng thấp.. các phản ứng chống oxy-hóa này tùy thuộc lượng sử dụng. 11-oxo-mogroside được xem là có hoạt tính mạnh nhất. Cũng trong thử nghiệm 'in vivo' này, các khả năng thu nhặt các gốc tự do của trích tinh quả và mogrosides được ghi nhận là yếu hơn Vitamin E (International Journal of Food Science and Nutrition Số 58-2007)
Khả năng chống ung thư: Các thử nghiệm trên thú vật ghi nhận các glycosides loại cucurbitane trích từ quả La hán có thể có một số hoạt tính ngừa ung thư.
Dịch chiết bằng alcol từ quả có hoạt tính ức chế sự khởi hoạt của siêu vi Epstein-Barr, mạnh hơn hoạt tính của beta-carotene (Cancer Letter Số 198-2003). Khi cho chuột bị gây ung thư da, dùng mogroside-5 hay 11-oxo-mogroside-5, trong 10-15 ngày liên tục, các tiến trình ung thư chậm lại, số bướu papilloma cũng giảm hạ (so với chuột đối chứng). Khi thử trên chuột bị gây ung thư bằng peroxynitrite, các đáp ứng cũng xẩy ra tương tự (Pure Applied Chemistry Sô 74-2002)
Hoạt tinh chống dị ứng, kháng histamine: Khi cho chuột dùng chất trích từ quả liều duy nhất 300 mg/kg, chuột bị gây dị ứng không còn phản ứng ngứa gãi da, liều 1000mg/kg làm mất phản ứng gãi mũi.. Các liều dùng mỗi ngày 300 mg và 1000 mg lập lại sau 2 đến 4 tuần cho thấy các hiệu ứng chống histamin được tích lũy dần dần..(Biology and Pharmacy Bulletin Số 28-2005)
Các phương thức sử dụng và thành phẩm từ quả La hán:
Dược học cổ truyền Trung Hoa không ghi chép gì về vị thuốc la hán, có lẽ do ở sự kiện kém phổ biến của quả, chỉ tập trung tại vài địa phương giới hạn ở phía Đông-Nam Trung Hoa. La hán quả chỉ trở thành phổ biến vào đầu thế kỷ 20.
Những tài liệu đầu tiên về La hán quả bằng Anh ngữ được công bố vào năm 1938, ghi nhận là quả La hán được dùng làm một thành phần trong các loại nước 'mát' giúp trị các triệu chứng 'nóng-nhiệt' trong người, và nấu hầm trong các món cháo với thịt heo nạc để trị các chứng nhiệt và ho...
La hán quả được đưa vào Hoa Kỳ từ đầu thế kỷ 20. Bộ Canh nông Hoa Kỳ ghi nhận sự có mặt của quả La hán vào năm 1917 và các nghiên cứu về chất ngọt từ quả la hán chỉ được bắt đầu từ 1975 từ các bài viết của C.H Lee và của Tsunematsu Takemoto..
Trong tập sách 'Fruits as Medicine', trang 104 các tác giả Dai Yin-fang và Liu cheng-jun đã ghi lại các phương thức sử dụng trong dân gian như sau:
Trị 'cảm nóng' và khát: lấy 1 quả la hán, bổ đôi, quậy đều trong nước sôi. Uống thay trà.
Sưng cổ họng cấp tính hay kinh niên, mất tiếng: lấy nửa quả và 3-5 hạt lười ươi (sterculia). Nấu vừa đủ với nước, và nuốt từ từ.
Ho kinh niên: Nấu chín quả với nước vừa đủ, uống mỗi ngày 2 lần.
Táo bón nơi người cao niên: Dùng 2 quả, lấy phần thịt và hạt, nấu chín từ từ và uống trước khi đi ngủ.
Tiểu đường và dùng thay cho đường: uống nước nấu quả hay thêm vào thức ăn khi cần đến đường.
Trên thị trường 'thuốc Bắc' có nhiều thành phẩm chế tạo từ quả La hán như:
Luo Han Guo Chong Ji , trích tinh từ quả, cô đặc thành khối, thường dùng làm thuốc ho, khan tiếng.
La hán quả dùng chung với Bạch quả trị ho.
La hán quả chung với Cúc hoa trị 'nóng nhiệt', nhức đầu...
Dược sĩ Trần Việt Hưng
Tài liệu sử dụng:
The Review of Natural Products 5th Ed (Facts & Comparisons)
Momordica grosvenori (Journal of the Arnold Arboretum)
Luo Han Guo (Subhuti Dharmananda)
Fruits as Medicine (Dai Yin-fang & Liu Cheng-jun)
http://www.tapchithegioimoi.com/tm.php?recordID=2439
Dược sĩ Trần Việt Hưng
Để thay thế cho đường miá (Cane sugar) không thích hợp cho người bị bệnh tiểu đường, một số chất tạo vị ngọt tổng hợp (như aspartame, saccharine, sucralose trong Splenda...) hay trích từ cây cỏ ( Stevia, Cam thảo...) đã được sử dụng và chất ngọt từ La hán quả có lẽ được ít người chú ý đến..
* Tên khoa học và các tên khác:
La hán quả là quả của cây Siraitia grosvernori, tên thực vật cũ là Momordica grosvernori hay Thladiantha grosvenorìi, thuộc họ thực vật Bầu bí (Cucurbitacea)
Các tên khác: Arhat fruit; Monk's fruit, longevity fruit, magic fruit, momordica fruit (tên này dễ gây nhầm với mướp đắng)
Tên La hán quả được giải thích là do những truyền thuyết từ Trung Hoa: từ thời Nhà Đường, Quế lâm là một Trung tâm của Phật giáo, có rất nhiều ngôi chùa. Các tu sĩ Phật giáo được cho là đã dùng quả của cây làm thực phẩm thường ngày nên đã giúp cơ thể dẻo dai, chống bệnh và trường thọ cùng luyện tập võ nghệ để phòng thân. Tên La hán quả cũng còn liên hệ đến những môn võ nghệ nổi tiếng như 'Thập bát La hán quyền', 'Thập bát La hán trận' của Chùa Thiếu Lâm...
Theo kinh điển Phật giáo thì trong Pháp trụ ký (Fachu-chi), Đại sư Khánh Hữu (Nan Đề Mật Đà La) đã ghi chép danh tánh, nơi cư trú và sứ mệnh của 16 Vị La hán, các Vị này đã đạt được Tam minh, Lục thông và Bát giải, vâng theo giáo chỉ của Đức Phật, kéo dài thọ mạng, trụ tại thế gian để hộ trì chánh pháp. Thiền sư Quán Hữu (832-912) đã vẽ ra hình ảnh của 16 Vị này (các hình ảnh này ngày nay vẫn còn nơi vách của Thiên Phật động tại Đôn Hoàng (Cam túc, Trung Hoa). Từ con số 16 ban đầu, có thêm thay đổi để thành 18 vị. Sự thay đổi này được giải thích là có thể do nhầm lẫn khi dịch kinh, nên thêm Vị Khánh Hữu và lập lại Vị Tân Đầu Lô... Tại Tây Tạng, 2 vị được thêm vào là Đạt Ma Đa la và Bố đại Hòa thượng. Thi hào Tô Đông Pha (1036-1101) đã làm 18 bài thơ, mỗi bài ca tụng 1 Vị và sau đó Họa sĩ Trương Huyền đã dựa vào các bài thơ này để tạc tượng 18 Vị La hán nhưng thay hai vị 17 và 18 bằng Tôn giả Ca Diếp và Quân Đề Bát Thán..
BS Nguyễn Lê Đức, một nhà nghiên cứu Phật học uyên thâm tại Jacksonville, Florida cho biết Chùa Đông đại Tự (Todaji) ở Nhật là ngôi chùa hoàn toàn bằng gỗ lớn nhất thế giới hiện còn tượng gỗ của Ngài Tân Đầu Lô giả (Pindolo) ở ngoài chùa mà khách thập phương đến lễ bái và tin rằng khi sờ vào chỗ nào trên thân thể Ngài thì bệnh đó trên mình sẽ hết (đau đâu sờ đó). Tân Đầu Lô là vị La hán duy nhất còn sống trên thế gian, vì Ngài bị Phật bắt ở lại để độ cho mọi người sau khi thi thố thần thông (làm phép) mà Đức Phật đã cấm.
Ngài Nagasena (Vị La hán số 12) được các Bác sĩ Tai-Mũi-Họng (ENT) Mỹ xem là Thánh Tổ. Nhiều Phật tử còn đeo xâu chuỗi La hán 18 hột, mỗi hột khắc 1 vị La hán tin rằng sẽ trừ được mọi tai nạn, bệnh tật..
Đặc tính thực vật:
Chi thực vật Siraitia còn có thêm 4 loài khác:
Siraitia siamensis phân bố tại Thái Lan.
S. sikkimensis và S. silomaradjea tại Ấn Độ
S. taiwaniana tại Đài Loan
Cây la hán thuộc loại dây leo, lưỡng niên, rụng lá có thể dài từ 3-5m, mọc phủ lên các cây khác bằng tua cuốn. Lá hẹp, hình trái tim, đầu nhọn dài 10-20 cm rộng 3.5-12cm. Hoa mọc thành chùm 2-3 hoa, hay cô độc, cuống hoa 3-5 cm. Cánh hoa mỏng, màu vàng nhạt Quả hình cầu, đường kính 5-7cm, màu xanh lục sẽ chuyển sang nâu khi khô, thịt mọng, có vị ngọt và mùi thơm trong chứa nhiều hạt nhỏ, dài chừng 15-18 mm, ngang 10-12mm.
Cây mọc hoang và được trồng tại vùng Tây-Nam Trung Hoa, phần lớn tại Quảng Đông, Quảng Tây, Quế Châu, Hồ Nam... đa số thành phẩm thương mãi là từ vùng cao nguyên Quế Lâm.
Các tài liệu ghi chép từ 1813 cho thấy cây đã được trồng tại Tỉnh Quảng Tây. Hiện nay tại vùng cao nguyên Quế Lâm có những đồn điền trồng la hán rộng trên 16 km vuông, cung cấp mỗi năm trên 10 ngàn quả. Thành phố Long Giang (Longjiang) được xem là ' Nhà của quả la hán' và đa số các Hãng dược phẩm sản xuất các thành phẩm từ la hán chọn thành phố này làm nơi đặt trụ sở.
(Tại Việt Nam, có một loài tương cận: Momerdica tonkinensis hay Thladiantha tonkinensis = Cây khố áo mọc tại Bắc Việt, quả chưa được nghiên cứu nhiều)
Thành phần hóa học:
-Quả chứa: Các đường hữu cơ như fructose, glucose...
Các terpene glycosides gọi chung là mogrosides trong đó một số chất đã xác định được công thức như Siomenoside I, Neo mogroside, Mogroside từ 1 đến 6 (Mogroside 5 chiếm từ 0.81 đến 1.29 %), Iso-mogroside-5, Oxo-mogroside-5
Các 28-Norcucurbitacins như Siraitic acid A,B,C,D và E
Hợp chất protein Monogrosvin có hoạt tính gây ngưng hoạt động của các ribosome.(Life Science Số 68-2001)
Chất ngọt từ quả La hán: Mogrosides
Quả La hán được thu hoạch lúc còn xanh, và chuyển sang màu đen sau khi được phơi khô. Vị ngọt của quả là do một nhóm glycosides loại terpen, gọi chung là mogrosides, chiếm khoảng 1 % phần thịt của quả, tính theo trọng lượng. Cả quả khô lẫn quả tươi đều được dùng để chiết, và cho một chất bột có thể chứa ít nhất là 80 % mogrosides. Các mogrosides đã được phân biệt và định danh từ 1 đến 5, chất chính là mogroside-5 (trước đây được gọi là esgoside). Một số hợp chất tương tự trong quả La hán được gọi là siamenoside, neomogroside..
Hỗn hợp mogrosides trong quả La hán cho vị ngọt cao hơn đường miá khoảng 300 lần (tính theo trọng lượng), như thế bột chiết 80 % sẽ ngọt hơn đường mía gấp 250 lần. Trong khi đó mogrosides nguyên chất có thể ngọt gấp 400 lần đường mía. Iso-mogroside-5 ngọt hơn đường khoảng 500 lần.
Năm 1995, Công ty Procter and Gamble đã cầu chứng một bằng sáng chế để chế tạo một chất ngọt từ quả La hán. Theo các mô tả trong Bằng sáng chế thì quả La hán, tự bản chất, tuy ngọt nhưng còn có kèm thêm khá nhiều vị khác nên không thể dùng trực tiếp làm chất tạo vị ngọt, và Công ty P&G đã phát minh ra một phương pháp chế biến để loại các vị không cần thiết. Mặt khác quả La hán rất ít khi được sử dụng dưới dạng quả tươi do các khó khăn trong việc tồn trữ, đồng thời vị của quả tươi cũng không hấp dẫn lắm, khi lên men còn tạo thêm các vị lạ và chất pectin trong quả lại chuyển sang dạng nhớt. Do đó quả thường phải phơi khô và đây là dạng được bán tại các tiệm thuốc bắc. Quả La hán được sấy khô trên chảo, giữ được quả lâu hơn và loại được một số hợp chât bốc hơi, nhưng lại tạo ra các vị đắng và chát. Các vị này giới hạn việc dùng quả trực tiếp và bột trích từ quả, nếu muốn dùng trong trà hay trong cháo thường phải kèm theo với đường mía hay mật ong. Trong phương thức chế biến của P&G, quả La hán được thu hái trước khi chín hẳn và được tồn trữ đến giai đoạn 'chín vừa đủ', sau đó loại bỏ hạt và vỏ, rồi nghiền nát để lấy nước cốt hay khối nhão và dùng các dung môi để loại các tạp chất và những mùi vị không cần đến... Hiện nay trên thị trường có bán một số sản phẩm tạo vị ngọt từ mogrosides..
Mogroside-5 tinh chế đã chính thức được phép dùng tại Nhật để làm chất tạo vị ngọt.
Các glycosides loại cucurbitane từ quả la hán đã được đánh giá về độ ngọt bằng cách dùng các thử nghiệm điện-tâm lý và phản ứng nhận định, thử trên bọ gerbil. Bọ được huấn luyện để biết tránh ăn chất ngọt từ đường mía và kết quả ghi nhận là Mogroside-5 có tác dụng kích thích các thụ thể vị giác gây các phản ứng thuận lợi của bọ, chấp nhận vị ngọt của mogrosides (Journal of Natural Products Sô 53-1990)
Các hoạt tính dược lực của glycosides trong quả La hán:
Ngoài vai trò dùng làm chất tạo vị ngọt, các glycosides trích từ quả La hán còn có một số dược tính khác như :
Làm hạ đường trong máu: Thử nghiệm trên chuột, chất trích thô từ quả và các glycosides loại triterpene của quả có khả ưng ức chế sự gia tăng độ glucose trong máu sau khi ăn, tác dụng xẩy ra rất nhanh: chỉ cần cho chuột dùng các chất này 3 phút trước khi cho chuột ăn maltose. Hiệu ứng được giải thích là do ức chế men maltase (Journal of Agricultural and Food Chemistry Số 53-2005). Trong một thử nghiệm khác, mogrosides được so sánh với một thuốc đặc chế XiaoKeWan= Tiêu khát hoàn, thường dùng để trị tiểu đường tại Trung hoa. Kết quả ghi nhận, mogrosides có khả năng giúp hạ tiểu đường, hạ lipid nơi chuột bị gây bệnh bằng alloxan (Nutrition Research Số 28-2008).
Hoạt tính chống oxy-hóa: Chất trích từ quả La hán và các glycosides như mogroside-4, mogroside-5, 11-oxo-mogrosi de-5, siamenoside.. ức chế được các tiến trình gây oxy-hóa loại do đồng làm trong gian, loại oxyhóa lipoprotein có phân tử lượng thấp.. các phản ứng chống oxy-hóa này tùy thuộc lượng sử dụng. 11-oxo-mogroside được xem là có hoạt tính mạnh nhất. Cũng trong thử nghiệm 'in vivo' này, các khả năng thu nhặt các gốc tự do của trích tinh quả và mogrosides được ghi nhận là yếu hơn Vitamin E (International Journal of Food Science and Nutrition Số 58-2007)
Khả năng chống ung thư: Các thử nghiệm trên thú vật ghi nhận các glycosides loại cucurbitane trích từ quả La hán có thể có một số hoạt tính ngừa ung thư.
Dịch chiết bằng alcol từ quả có hoạt tính ức chế sự khởi hoạt của siêu vi Epstein-Barr, mạnh hơn hoạt tính của beta-carotene (Cancer Letter Số 198-2003). Khi cho chuột bị gây ung thư da, dùng mogroside-5 hay 11-oxo-mogroside-5, trong 10-15 ngày liên tục, các tiến trình ung thư chậm lại, số bướu papilloma cũng giảm hạ (so với chuột đối chứng). Khi thử trên chuột bị gây ung thư bằng peroxynitrite, các đáp ứng cũng xẩy ra tương tự (Pure Applied Chemistry Sô 74-2002)
Hoạt tinh chống dị ứng, kháng histamine: Khi cho chuột dùng chất trích từ quả liều duy nhất 300 mg/kg, chuột bị gây dị ứng không còn phản ứng ngứa gãi da, liều 1000mg/kg làm mất phản ứng gãi mũi.. Các liều dùng mỗi ngày 300 mg và 1000 mg lập lại sau 2 đến 4 tuần cho thấy các hiệu ứng chống histamin được tích lũy dần dần..(Biology and Pharmacy Bulletin Số 28-2005)
Các phương thức sử dụng và thành phẩm từ quả La hán:
Dược học cổ truyền Trung Hoa không ghi chép gì về vị thuốc la hán, có lẽ do ở sự kiện kém phổ biến của quả, chỉ tập trung tại vài địa phương giới hạn ở phía Đông-Nam Trung Hoa. La hán quả chỉ trở thành phổ biến vào đầu thế kỷ 20.
Những tài liệu đầu tiên về La hán quả bằng Anh ngữ được công bố vào năm 1938, ghi nhận là quả La hán được dùng làm một thành phần trong các loại nước 'mát' giúp trị các triệu chứng 'nóng-nhiệt' trong người, và nấu hầm trong các món cháo với thịt heo nạc để trị các chứng nhiệt và ho...
La hán quả được đưa vào Hoa Kỳ từ đầu thế kỷ 20. Bộ Canh nông Hoa Kỳ ghi nhận sự có mặt của quả La hán vào năm 1917 và các nghiên cứu về chất ngọt từ quả la hán chỉ được bắt đầu từ 1975 từ các bài viết của C.H Lee và của Tsunematsu Takemoto..
Trong tập sách 'Fruits as Medicine', trang 104 các tác giả Dai Yin-fang và Liu cheng-jun đã ghi lại các phương thức sử dụng trong dân gian như sau:
Trị 'cảm nóng' và khát: lấy 1 quả la hán, bổ đôi, quậy đều trong nước sôi. Uống thay trà.
Sưng cổ họng cấp tính hay kinh niên, mất tiếng: lấy nửa quả và 3-5 hạt lười ươi (sterculia). Nấu vừa đủ với nước, và nuốt từ từ.
Ho kinh niên: Nấu chín quả với nước vừa đủ, uống mỗi ngày 2 lần.
Táo bón nơi người cao niên: Dùng 2 quả, lấy phần thịt và hạt, nấu chín từ từ và uống trước khi đi ngủ.
Tiểu đường và dùng thay cho đường: uống nước nấu quả hay thêm vào thức ăn khi cần đến đường.
Trên thị trường 'thuốc Bắc' có nhiều thành phẩm chế tạo từ quả La hán như:
Luo Han Guo Chong Ji , trích tinh từ quả, cô đặc thành khối, thường dùng làm thuốc ho, khan tiếng.
La hán quả dùng chung với Bạch quả trị ho.
La hán quả chung với Cúc hoa trị 'nóng nhiệt', nhức đầu...
Dược sĩ Trần Việt Hưng
Tài liệu sử dụng:
The Review of Natural Products 5th Ed (Facts & Comparisons)
Momordica grosvenori (Journal of the Arnold Arboretum)
Luo Han Guo (Subhuti Dharmananda)
Fruits as Medicine (Dai Yin-fang & Liu Cheng-jun)
http://www.tapchithegioimoi.com/tm.php?recordID=2439
Wednesday, June 1, 2011
Cách ăn để giảm nhanh mỡ bụng
Cách ăn để giảm nhanh mỡ bụng
bangson cập nhật ngày: 01/06/2011
Kiểu mẫu chế độ ăn uống này đã được các nhà nghiên cứu tiến hành nhiều nghiên cứu và chứng minh rằng nó có tác dụng rất tốt trong việc giảm mỡ bụng.
Béo bụng không đơn thuần chỉ là sự gia tăng các lớp da, gây to bụng mà nó vô cùng nguy hiểm. Nó có khả năng gây ra rất nhiều biến chứng về sức khỏe. Đó là lý do tại sao việc đốt chất béo dạ dày càng sớm càng tốt là rất quan trọng.
Dưới đây là mẫu chế độ ăn kiêng để giảm béo bụng nhanh, mời các bạn tham khảo:
1. Ăn nhiều chất xơ
Chất xơ là một trong những thành phần thiết yếu nhất của một mẫu chế độ ăn để giảm béo bụng nhanh. Khi trộn với nước, thực phẩm nhiều chất xơ giúp tiêu hóa tốt tất cả những gì bạn ăn. Điều này có nghĩa là thực phẩm bạn ăn đã được chuyển thành năng lượng hiệu quả hơn và không có bất kỳ dư lượng chất béo nào tích thêm thêm vào các chất béo bụng.
2. Ăn đồ ăn có chứa carbohydrate
Khi bạn ăn đồ ăn có chứa carbohydrate (bánh mì, bột nhão (pasta), đậu, khoai tây, gạo và ngũ cốc), nó được lưu trữ như glucogen trong cơ bắp và gan của bạn. Glucogen trữ nước gấp 3 lần trọng lượng của nó, trong khi chất béo và protein không trữ ít nước nào cả. Lưu trữ nước có nghĩa là chất béo không có nhiều không gian để có được lưu trữ. Tuy nhiên, hãy cẩn thận để không ăn quá nhiều carbohydrate có thể gây đầy hơi.
3. Uống nhiều nước
Trong khi có rất nhiều người tin rằng uống nhiều nước có thể dẫn đến đầy hơi, thì sự thật lại là ngược lại. Khi bạn uống nhiều nước, natri dư thừa trong cơ thể bị ngập nước và làm giảm đầy hơi. Nước là một trong những yếu tố thiết yếu của một mẫu chế độ ăn để giảm béo bụng nhanh.
4. Kiểm soát lượng natri
Natri là cần thiết cho cơ thể, nhưng không nên nạp quá nhiều. Khi natri vượt quá ngưỡng cho phép nó gây đầy hơi vì natri có tính giữ nước và nước được giữ lại ở những nơi có quá nhiều natri, nhất là ở vùng bụng.
5. Ăn một bữa ăn tối nhẹ
Tỷ lệ trao đổi chất của bạn vào ban đêm là rất thấp, và trong khi ngủ thì cơ thể bạn không đưa ra quá nhiều năng lượng. Điều này có nghĩa là hầu hết những gì bạn ăn vào ban đêm sẽ được lưu trữ trong cơ thể của bạn thay vì được chuyển đổi thành năng lượng. Đó là lý do tại sao một bữa ăn tối nhẹ luôn luôn là cần thiết khi bạn muốn giảm mỡ bụng.
6. Ăn bữa ăn nhỏ thường xuyên
Ăn thành các bữa ăn nhỏ trong ngày sẽ có hiệu quả hơn rất nhiều so với việc chỉ ăn ba bữa ăn lớn trong một ngày. Điều này giúp giữ cho hệ tiêu hóa của bạn cũng như hệ thống trao đổi chất làm việc hiệu quả hơn. Ngoài ra, số lượng nhỏ thức ăn sẽ được tiêu hóa và đốt cháy một cách nhanh chóng hơn rất nhiều so với lượng lớn thức ăn trong các bữa ăn lớn.
7. Tránh căng thẳng càng nhiều càng tốt
Mặc dù đây không phải là một bí kíp trong chế độ ăn uống, nhưng nó cũng vô cùng quan trọng trong việc giảm mỡ bụng. Khi bạn đang căng thẳng, bạn có xu hướng ăn nhiều hơn cũng như ăn tất cả các loại thực phẩm không thích hợp.
Ngoài ra, do căng thẳng, hệ tiêu hóa và các hệ thống khác trong cơ thể bạn không hoạt động tối ưu chức năng của chúng. Cả hai yếu tố này kết hợp lại với nhau có thể làm tăng thêm rất nhiều chất béo dư thừa trong dạ dày của bạn.
http://tretoday.net/news/news/92_Benh_Ly/475051_Cach_an_de_giam_nhanh_m%E1%BB%A1_bung_/?
bangson cập nhật ngày: 01/06/2011
Kiểu mẫu chế độ ăn uống này đã được các nhà nghiên cứu tiến hành nhiều nghiên cứu và chứng minh rằng nó có tác dụng rất tốt trong việc giảm mỡ bụng.
Béo bụng không đơn thuần chỉ là sự gia tăng các lớp da, gây to bụng mà nó vô cùng nguy hiểm. Nó có khả năng gây ra rất nhiều biến chứng về sức khỏe. Đó là lý do tại sao việc đốt chất béo dạ dày càng sớm càng tốt là rất quan trọng.
Dưới đây là mẫu chế độ ăn kiêng để giảm béo bụng nhanh, mời các bạn tham khảo:
1. Ăn nhiều chất xơ
Chất xơ là một trong những thành phần thiết yếu nhất của một mẫu chế độ ăn để giảm béo bụng nhanh. Khi trộn với nước, thực phẩm nhiều chất xơ giúp tiêu hóa tốt tất cả những gì bạn ăn. Điều này có nghĩa là thực phẩm bạn ăn đã được chuyển thành năng lượng hiệu quả hơn và không có bất kỳ dư lượng chất béo nào tích thêm thêm vào các chất béo bụng.
2. Ăn đồ ăn có chứa carbohydrate
Khi bạn ăn đồ ăn có chứa carbohydrate (bánh mì, bột nhão (pasta), đậu, khoai tây, gạo và ngũ cốc), nó được lưu trữ như glucogen trong cơ bắp và gan của bạn. Glucogen trữ nước gấp 3 lần trọng lượng của nó, trong khi chất béo và protein không trữ ít nước nào cả. Lưu trữ nước có nghĩa là chất béo không có nhiều không gian để có được lưu trữ. Tuy nhiên, hãy cẩn thận để không ăn quá nhiều carbohydrate có thể gây đầy hơi.
3. Uống nhiều nước
Trong khi có rất nhiều người tin rằng uống nhiều nước có thể dẫn đến đầy hơi, thì sự thật lại là ngược lại. Khi bạn uống nhiều nước, natri dư thừa trong cơ thể bị ngập nước và làm giảm đầy hơi. Nước là một trong những yếu tố thiết yếu của một mẫu chế độ ăn để giảm béo bụng nhanh.
4. Kiểm soát lượng natri
Natri là cần thiết cho cơ thể, nhưng không nên nạp quá nhiều. Khi natri vượt quá ngưỡng cho phép nó gây đầy hơi vì natri có tính giữ nước và nước được giữ lại ở những nơi có quá nhiều natri, nhất là ở vùng bụng.
5. Ăn một bữa ăn tối nhẹ
Tỷ lệ trao đổi chất của bạn vào ban đêm là rất thấp, và trong khi ngủ thì cơ thể bạn không đưa ra quá nhiều năng lượng. Điều này có nghĩa là hầu hết những gì bạn ăn vào ban đêm sẽ được lưu trữ trong cơ thể của bạn thay vì được chuyển đổi thành năng lượng. Đó là lý do tại sao một bữa ăn tối nhẹ luôn luôn là cần thiết khi bạn muốn giảm mỡ bụng.
6. Ăn bữa ăn nhỏ thường xuyên
Ăn thành các bữa ăn nhỏ trong ngày sẽ có hiệu quả hơn rất nhiều so với việc chỉ ăn ba bữa ăn lớn trong một ngày. Điều này giúp giữ cho hệ tiêu hóa của bạn cũng như hệ thống trao đổi chất làm việc hiệu quả hơn. Ngoài ra, số lượng nhỏ thức ăn sẽ được tiêu hóa và đốt cháy một cách nhanh chóng hơn rất nhiều so với lượng lớn thức ăn trong các bữa ăn lớn.
7. Tránh căng thẳng càng nhiều càng tốt
Mặc dù đây không phải là một bí kíp trong chế độ ăn uống, nhưng nó cũng vô cùng quan trọng trong việc giảm mỡ bụng. Khi bạn đang căng thẳng, bạn có xu hướng ăn nhiều hơn cũng như ăn tất cả các loại thực phẩm không thích hợp.
Ngoài ra, do căng thẳng, hệ tiêu hóa và các hệ thống khác trong cơ thể bạn không hoạt động tối ưu chức năng của chúng. Cả hai yếu tố này kết hợp lại với nhau có thể làm tăng thêm rất nhiều chất béo dư thừa trong dạ dày của bạn.
http://tretoday.net/news/news/92_Benh_Ly/475051_Cach_an_de_giam_nhanh_m%E1%BB%A1_bung_/?
Sunday, May 29, 2011
Thực Phẩm Lên Men Giúp Giảm Cân, Lợi Đường Ruột
Thực Phẩm Lên Men Giúp Giảm Cân, Lợi Đường Ruột: "Những người hàng ngày trong thực đơn có ăn loại vi khuẩn lactic acid bacteria"
Saturday, May 28, 2011
Wednesday, May 25, 2011
Thuốc chữa chứng sợ độ cao
Thuốc chữa chứng sợ độ cao
Thứ tư - 05/25/2011 00:51
Text size
Planets
Share this story
Share on Facebook Share on Twitter Share on Google Share on Buzz
Story tools
Email print
Nhiều người sợ độ cao, không những đứng ở những cao điểm mà có mặt tại các nơi biết là trên độ cao như trên núi, trong chung cư, họ cũng chóng mặt, hốt hoảng, buồn nôn… Bây giờ, hội chứng đó đã có thuốc chữa.
Theo Hot-info, các nhà nghiên cứu của trường Đại học Basel (Thuỵ Sĩ) đã nghiên cứu để điều chế ra loại thuốc chữa một hội chứng khá đặc biệt là “sợ độ cao” (acrophobia) mà không nhiều người bị mắc. Thuốc dựa trên hoạt chất là cortisol, vốn là một hocmon gây ra stress.
952558820_20110523111744_chongmatdocao.j
Những cơn chóng mặt khi ở những tòa nhà chung cư cao tầng sẽ được trị khỏi hoàn toàn.
Họ cho biết chỉ cần một viên thuốc là đủ để vượt qua được hội chứng này. Theo giải thích của những nhà phát minh, hocmon gây stress có tác dụng “lập trình lại” cho bộ não, loại trừ ra khỏi não cảm giác sợ hãi và lo lắng là đặc trưng của hội chứng sợ độ cao.
Quá trình nghiên cứu ra thuốc có sự tham gia của 40 “bệnh nhân” là những người không dám đi máy bay, đi qua những cây cầu lớn, sợ ở nhà cao tầng. Cho uống thuốc, kết hợp với sự trợ giúp tâm lý đã khiến họ chiến thắng được nỗi sợ hãi đã ngăn cản họ thoải mái trong sinh hoạt.
Thuốc không những chỉ chống được hội chứng sợ độ cao mà còn có tác dụng đối với nhiều trạng thái tâm lý sợ hãi tương tự - theo công bố đăng trên trang mạng của Nga medikforum.ru.
http://clickvao.com/news/others/Thuoc-chua-chung-so-do-cao-28349/
Thứ tư - 05/25/2011 00:51
Text size
Planets
Share this story
Share on Facebook Share on Twitter Share on Google Share on Buzz
Story tools
Email print
Nhiều người sợ độ cao, không những đứng ở những cao điểm mà có mặt tại các nơi biết là trên độ cao như trên núi, trong chung cư, họ cũng chóng mặt, hốt hoảng, buồn nôn… Bây giờ, hội chứng đó đã có thuốc chữa.
Theo Hot-info, các nhà nghiên cứu của trường Đại học Basel (Thuỵ Sĩ) đã nghiên cứu để điều chế ra loại thuốc chữa một hội chứng khá đặc biệt là “sợ độ cao” (acrophobia) mà không nhiều người bị mắc. Thuốc dựa trên hoạt chất là cortisol, vốn là một hocmon gây ra stress.
952558820_20110523111744_chongmatdocao.j
Những cơn chóng mặt khi ở những tòa nhà chung cư cao tầng sẽ được trị khỏi hoàn toàn.
Họ cho biết chỉ cần một viên thuốc là đủ để vượt qua được hội chứng này. Theo giải thích của những nhà phát minh, hocmon gây stress có tác dụng “lập trình lại” cho bộ não, loại trừ ra khỏi não cảm giác sợ hãi và lo lắng là đặc trưng của hội chứng sợ độ cao.
Quá trình nghiên cứu ra thuốc có sự tham gia của 40 “bệnh nhân” là những người không dám đi máy bay, đi qua những cây cầu lớn, sợ ở nhà cao tầng. Cho uống thuốc, kết hợp với sự trợ giúp tâm lý đã khiến họ chiến thắng được nỗi sợ hãi đã ngăn cản họ thoải mái trong sinh hoạt.
Thuốc không những chỉ chống được hội chứng sợ độ cao mà còn có tác dụng đối với nhiều trạng thái tâm lý sợ hãi tương tự - theo công bố đăng trên trang mạng của Nga medikforum.ru.
http://clickvao.com/news/others/Thuoc-chua-chung-so-do-cao-28349/
Saturday, May 21, 2011
Huyền Thoại Và Sự Thật Về Ăn Chay
Huyền Thoại Và Sự Thật Về Ăn Chay
Dr. D.P. Atukorale
Tâm Diệu dịch
Lời Dịch Giả: Dr. D.P. Atukorale, M.D. M.R.C.P. là bác sĩ chuyên khoa về tim mạch, hiện là Giáo Sư Viện Đại Học Colombo Tích Lan và là Cố Vấn Trưởng Khoa Tim Mạch Viện Tim Mạch Quốc Gia, Colombo, Sri Lanka. Ông cũng là một Học giả Phật Giáo. Bài này và các bài nghiên cứu khác về y khoa và dinh dưỡng của ông được đăng tải trên Tập San Y Khoa Hiệp Hội Y Khoa Tích Lan và các báo Online edition of Daily News và Sunday Observer ở Colombo.
Nhiều cư sĩ và nhà chuyên ngành ở Tích Lan đã có những nhận thức sai lầm về ăn chay và các loại chất đạm (proteins). Một trong các nhận thức sai lầm này là ăn chay không hội đủ chất đạm và các loại đạm có phẩm chất cao. Loại nhận thức sai lầm khác thì cho là chất đạm từ thực vật không tốt bằng chất đạm thịt động vật.
Bất cứ khi nào tôi nói với các bạn hữu và thân nhân của tôi rằng tôi là một người ăn chay thì phản ứng đầu tiên của họ là "làm sao ông có thể có đủ chất đạm?"
Những người ăn chay không cần phải lo lắng về vấn đề chất đạm và hầu như không thể có được chuyện thiếu chất đạm đối với họ.
Sự hiểu biết thông thường cho hay, chất đạm là chất quan trọng hàng đầu cho sức khỏe vì nó đóng vai trò chủ yếu trong mọi tế bào của cơ thể chúng ta. Tất cả các enzymes (1) đều là chất đạm. Các kháng thể, các chất kích thích tố và xương cốt đều chứa chất đạm. Chất đạm sản sinh ra năng lượng (4 Kcal/gm), giúp chuyển vận chất mỡ và chất sinh tố, cũng như giúp điều chỉnh hệ thống tự điều hòa của cơ thể (homeostasis).
Khi nhiệt lượng trong người được quân bình thì hầu như không có chuyện thiếu chất đạm được. Đó là bởi vì các loại chất đạm có phẩm chất tốt gồm đầy đủ các loại amino-acids thiết yếu đều có hàm chứa tràn ngập trong các loại mễ cốc, rau, đậu, quả và hạt. Tại một số quốc gia chậm tiến, đôi khi quả là có xẩy ra chuyện suy dinh dưỡng. Nhưng đây không phải vì họ ăn chay mà là vì nạn khan hiếm thực phẩm.
Đúng là người ăn chay tiêu thụ ít chất đạm hơn người ăn thịt. Nhưng họ dễ dàng hội đủ chất đạm cần thiết và chuyện người ăn chay mà bị rơi vào tình trạng thiếu chất đạm thì hiếm vô cùng. Người ăn chay nên ăn nhiều loại rau, đậu, quả, hạt và mễ cốc khác nhau và cũng không cần phải ăn theo một loại thực đơn có tính toán kết hợp một cách cẩn thận cho mỗi bữa ăn như trước kia chúng ta thường tin tưởng.
Chất đạm thực vật lành mạnh hơn là chất đạm thịt động vật và sự thặng dư chất đạm từ thịt trong cơ thể có liên quan đến sự tăng cường bệnh tim, làm thất thoát chất calcium (2) và làm suy yếu sự hoạt động của thận.
Tại những quốc gia đang phát triển như Tích Lan, khi mức sống tiêu chuẩn căn bản tăng lên, thường kèm theo sự thay đổi lối sống và chế độ ăn uống. Người ta thường thấy những người " giầu nổi " và những di dân mới từ quê ra tỉnh, vốn chưa bao giờ được ăn thịt bò, thịt cừu, thịt heo, trứng, nay cũng tranh đua với "dân giầu thành thị", tiêu thụ nhiều chất đạm từ loài vật , và khuynh hướng này dẫn đến những căn bệnh kinh niên như bệnh tim, bệnh ung thư, bệnh thận, bệnh tiểu đường, cao máu và mập phì.
CHẤT ĐẠM (PROTEIN)
Chất đạm được lập thành bởi những chuỗi xoắn dài amino-acids, trong đó có chứa chất nitrogen. Có hai mươi loại amino-acids khác nhau trong chất đạm cơ thể con người và có trong thực phẩm thực vật lẫn động vật. Trong số hai mươi loại amino-acids này, cơ thể chúng ta tự tạo ra 11 loại và được gọi là non-essential amino-acids. Còn 9 loại kia được lấy từ bên ngoài qua việc ăn chất đạm thịt hay chất đạm thực vật và được gọi là loại essential amino-acids (EAA). Tất cả chất đạm như là thịt, sữa bò, trứng gà, mễ cốc, đậu, hạt đều chứa các loại essential amino-acids. Gelatin (3) là một loại protein duy nhất thiếu hầu hết EAA. Một số loại thực vật không chứa đầy đủ EAA, nhưng những người ăn chay ăn nhiều loại rau đậu khác nhau, họ sẽ có đầy đủ EAA. Phẩm chất của chất đạm hấp thụ cũng tùy thuộc vào sự tiêu hóa chúng. Trong tiến trình tiêu hóa này, chất đạm được phân hóa thành những phân tử amino-acids. Chất đạm thực vật có độ bách phân dễ tiêu hóa là 85% so với chất đạm thịt là 95%, một sự cách biệt nhỏ không đáng kể. (4)
CHÚNG TA CẦN BAO NHIÊU CHẤT ĐẠM?
Điều này còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố như là tuổi tác, trọng lượng cơ thể, khí hậu, sự hoạt động thể lực và tình trạng sức khỏe tổng quát của mỗi cá nhân. Số nhiệt lượng (calories) (5) trong chế độ ăn uống cũng ảnh hưởng đến nhu cầu chất đạm. Khi nhiệt lượng thấp, cơ thể đốt chất đạm để tạo ra năng lượng hoạt động và do đó nhu cầu chất đạm đòi hỏi gia tăng. Nhu cầu chất đạm tùy thuộc vào sự quân bình nitrogen. Nghiên cứu sự quân bình nitrogen cho chúng ta biết chúng ta cần bao nhiêu chất đạm để có thể thỏa mãn nhu cầu đòi hỏi của nitrogen. Sự quân bình nitrogen dùng để thiết lập chỉ số khuyến cáo khẩu phần ăn chất đạm RDA (recommended dietary allowance). RDA chất đạm cho phái nam trưởng thành là 63 grams và phụ nữ trưởng thành là 50 grams. Đây là chỉ số của người Hoa Kỳ và chỉ số RDA chất đạm cho người Tích Lan ít hơn nhiều. Nhu cầu chất đạm không những tùy thuộc nơi trọng lượng thực sự của cơ thể mà còn tùy thuộc nơi trong lượng lý tưởng nữa (ideal body weight). Một cách cụ thể hơn, RDA chất đạm là 0.8 grams cho mỗi kilogram của trọng lượng lý tưởng.
ĂN CHAY và vấn đề CHẤT ĐẠM
Chất đạm trong chế độ ăn chay thường thấp hơn chất đạm trong chế độ ăn thịt. Do thực phẩm có nguồn gốc thực vật chứa ít chất đạm hơn thực phẩm có nguồn gốc thịt động vật và vì có sự giới hạn chất amino-acids, nên những người ăn chay cần phải ăn nhiều thực phẩm rau đậu hơn, cả lượng và loại. Chỉ số RDA lý tưởng cho người ăn chay thuần túy (vegans, pure vegetarians) là 1.0 gram chất đạm cho mỗi kilogram trong lượng cơ thể so sánh với 0.80 grams cho người ăn thịt. Người ăn chay thuần túy đạt được từ 11 đến 12 phần trăm nhiệt lượng từ chất đạm, trong khi đó những người ăn thịt đạt được từ 15 đến 17 phần trăm.
Những cuộc nghiên cứu đã cho biết rằng người ăn chay thuần túy vẫn có được đầy đủ chất đạm. Vì thế người ăn chay không cần phải làm thêm một điều gì đặc biệt để thỏa mãn nhu cầu chất đạm đòi hỏi. Chỉ ăn đủ calories, giữ trọng lượng lý tưởng cơ thể (6) và ăn nhiều loại thực phẩm rau đậu khác nhau như đậu nành, đậu lăng (lentils) và những thứ khác như đậu lima, khoai tây, rau bina (spinach), đậu hũ, bánh mì, gạo đỏ và đậu Hà Lan (peas). Một vài thực phẩm rau đậu như broccoli còn tốt hơn cả thịt bò.
Theo ADA (American Dietetic Association), không cần thiết phải ăn thật chính xác cho đủ amino-acids mỗi bữa ăn. Chất đạm ăn vào bữa ăn trước có thể phối hợp với chất đạm ăn vào bữa ăn tới để cải thiện phẩm chất nguồn đạm thiết yếu trong kho dự trữ của cơ thể.
Chất đạm thực vật có khả năng phòng ngừa bệnh tim mạch và tốt cho xương hơn. Dư thừa chất đạm có hại cho những người mang bệnh thận. (7) Khác với người ăn thịt, người ăn chay không có vấn đề thặng dư chất đạm.
Chú thích của người dịch:
(1) Enzyme có thể dịch là phân hóa tố, là một chất xúc tác dùng để gây mồi cho một phản ứng hóa học.
(2) Các nhà nghiên cứu khoa học cho biết dinh dưỡng bằng chất đạm thịt là nguyên nhân làm thất thoát calcium qua sự bài tiết. Họ cho hay càng ăn nhiều protein thịt càng nhiều lượng calcium bị bài tiết ra ngoài. (Anand CR et al. Effect of protein intake on calcium balance. J Nutr 104:695- 700, 1974; Fed Proc 40: 2429- 2433, 1981; Dietary protein increases urinary calcium. J Nutr 120:134-136, 1989).
(3) Gelatin có thể dịch là chất đông sương, là một chất không mùi vị, lấy được bằng cách nấu xương, móng và các phần khác của động vật hay bằng cách nấu thực vật. Khi để nguội lại sẽ đông đặc thành chất nhờn, được dùng làm thực phẩm, dùng trong kỹ nghệ phim ảnh, và y khoa.
(4) Mỗi loại chất đạm có độ dễ tiêu hóa khác nhau. Chất đạm thực vật, dạng tươi sống, có độ dễ tiêu hóa thấp hơn chất đạm thịt. Tuy nhiên, bằng phương pháp nấu chín và biến chế có thể gia tăng độ dễ tiêu hóa. Ví dụ khi biến chế đậu nành thành đậu hũ, độ dễ tiêu hóa còn cao hơn độ dễ tiêu hóa chất đạm thịt.
(5) Calorie là nhiệt lượng, đơn vị dùng để đo năng lượng do thức ăn sinh ra
(6) Nếu trọng lượng cơ thể nặng 20 phần trăm nhiều hơn lý tưởng thì xem là bị mập. Nói một cách chính xác hơn, nếu con số Body Mass Index (BMI) cao hơn 30 thì bị gọi là mập. Có hai cách tính: (1)
Body Mass Index (BMI)=[Trọng lượng cơ thể (Kg)/Chiều cao(Meter)]/Chiều cao(Meter). Thí dụ như một người cân nặng 80 kg và cao 1,6 meter thì BMI sẽ bằng 31. (BMI=80:1,6:1,6).
Cách tính thứ hai là (1) nhân trọng lượng cơ thể bằng pound với 703 (2) nhân chiều cao bằng inches với chính nó (3) chia số thứ nhất cho số thứ hai là có trị số BMI. Thí dụ trong lượng cơ thể là 145 pounds, chiều cao là 5 feet 4 inches: BMI= [145 x 703]/[64 x 64] = 25
(7) Tiêu thụ nhiều chất đạm thịt động vật có thể làm hư hại thận bởi vì thận phải làm việc nhiều hơn trong nỗ lực lọc bỏ chất ammonia, phó sản của tiến trình metabolism thực phẩm. Chất đạm thực vật không có tác dụng này. (Robertson PJ et al. The effect of high animal protein intake on the risk of calcium ston-formation in the urinary tract. Clinical Science 1979;57:285-288)
http://www.tapchithegioimoi.com/tm.php?recordID=2387
Dr. D.P. Atukorale
Tâm Diệu dịch
Lời Dịch Giả: Dr. D.P. Atukorale, M.D. M.R.C.P. là bác sĩ chuyên khoa về tim mạch, hiện là Giáo Sư Viện Đại Học Colombo Tích Lan và là Cố Vấn Trưởng Khoa Tim Mạch Viện Tim Mạch Quốc Gia, Colombo, Sri Lanka. Ông cũng là một Học giả Phật Giáo. Bài này và các bài nghiên cứu khác về y khoa và dinh dưỡng của ông được đăng tải trên Tập San Y Khoa Hiệp Hội Y Khoa Tích Lan và các báo Online edition of Daily News và Sunday Observer ở Colombo.
Nhiều cư sĩ và nhà chuyên ngành ở Tích Lan đã có những nhận thức sai lầm về ăn chay và các loại chất đạm (proteins). Một trong các nhận thức sai lầm này là ăn chay không hội đủ chất đạm và các loại đạm có phẩm chất cao. Loại nhận thức sai lầm khác thì cho là chất đạm từ thực vật không tốt bằng chất đạm thịt động vật.
Bất cứ khi nào tôi nói với các bạn hữu và thân nhân của tôi rằng tôi là một người ăn chay thì phản ứng đầu tiên của họ là "làm sao ông có thể có đủ chất đạm?"
Những người ăn chay không cần phải lo lắng về vấn đề chất đạm và hầu như không thể có được chuyện thiếu chất đạm đối với họ.
Sự hiểu biết thông thường cho hay, chất đạm là chất quan trọng hàng đầu cho sức khỏe vì nó đóng vai trò chủ yếu trong mọi tế bào của cơ thể chúng ta. Tất cả các enzymes (1) đều là chất đạm. Các kháng thể, các chất kích thích tố và xương cốt đều chứa chất đạm. Chất đạm sản sinh ra năng lượng (4 Kcal/gm), giúp chuyển vận chất mỡ và chất sinh tố, cũng như giúp điều chỉnh hệ thống tự điều hòa của cơ thể (homeostasis).
Khi nhiệt lượng trong người được quân bình thì hầu như không có chuyện thiếu chất đạm được. Đó là bởi vì các loại chất đạm có phẩm chất tốt gồm đầy đủ các loại amino-acids thiết yếu đều có hàm chứa tràn ngập trong các loại mễ cốc, rau, đậu, quả và hạt. Tại một số quốc gia chậm tiến, đôi khi quả là có xẩy ra chuyện suy dinh dưỡng. Nhưng đây không phải vì họ ăn chay mà là vì nạn khan hiếm thực phẩm.
Đúng là người ăn chay tiêu thụ ít chất đạm hơn người ăn thịt. Nhưng họ dễ dàng hội đủ chất đạm cần thiết và chuyện người ăn chay mà bị rơi vào tình trạng thiếu chất đạm thì hiếm vô cùng. Người ăn chay nên ăn nhiều loại rau, đậu, quả, hạt và mễ cốc khác nhau và cũng không cần phải ăn theo một loại thực đơn có tính toán kết hợp một cách cẩn thận cho mỗi bữa ăn như trước kia chúng ta thường tin tưởng.
Chất đạm thực vật lành mạnh hơn là chất đạm thịt động vật và sự thặng dư chất đạm từ thịt trong cơ thể có liên quan đến sự tăng cường bệnh tim, làm thất thoát chất calcium (2) và làm suy yếu sự hoạt động của thận.
Tại những quốc gia đang phát triển như Tích Lan, khi mức sống tiêu chuẩn căn bản tăng lên, thường kèm theo sự thay đổi lối sống và chế độ ăn uống. Người ta thường thấy những người " giầu nổi " và những di dân mới từ quê ra tỉnh, vốn chưa bao giờ được ăn thịt bò, thịt cừu, thịt heo, trứng, nay cũng tranh đua với "dân giầu thành thị", tiêu thụ nhiều chất đạm từ loài vật , và khuynh hướng này dẫn đến những căn bệnh kinh niên như bệnh tim, bệnh ung thư, bệnh thận, bệnh tiểu đường, cao máu và mập phì.
CHẤT ĐẠM (PROTEIN)
Chất đạm được lập thành bởi những chuỗi xoắn dài amino-acids, trong đó có chứa chất nitrogen. Có hai mươi loại amino-acids khác nhau trong chất đạm cơ thể con người và có trong thực phẩm thực vật lẫn động vật. Trong số hai mươi loại amino-acids này, cơ thể chúng ta tự tạo ra 11 loại và được gọi là non-essential amino-acids. Còn 9 loại kia được lấy từ bên ngoài qua việc ăn chất đạm thịt hay chất đạm thực vật và được gọi là loại essential amino-acids (EAA). Tất cả chất đạm như là thịt, sữa bò, trứng gà, mễ cốc, đậu, hạt đều chứa các loại essential amino-acids. Gelatin (3) là một loại protein duy nhất thiếu hầu hết EAA. Một số loại thực vật không chứa đầy đủ EAA, nhưng những người ăn chay ăn nhiều loại rau đậu khác nhau, họ sẽ có đầy đủ EAA. Phẩm chất của chất đạm hấp thụ cũng tùy thuộc vào sự tiêu hóa chúng. Trong tiến trình tiêu hóa này, chất đạm được phân hóa thành những phân tử amino-acids. Chất đạm thực vật có độ bách phân dễ tiêu hóa là 85% so với chất đạm thịt là 95%, một sự cách biệt nhỏ không đáng kể. (4)
CHÚNG TA CẦN BAO NHIÊU CHẤT ĐẠM?
Điều này còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố như là tuổi tác, trọng lượng cơ thể, khí hậu, sự hoạt động thể lực và tình trạng sức khỏe tổng quát của mỗi cá nhân. Số nhiệt lượng (calories) (5) trong chế độ ăn uống cũng ảnh hưởng đến nhu cầu chất đạm. Khi nhiệt lượng thấp, cơ thể đốt chất đạm để tạo ra năng lượng hoạt động và do đó nhu cầu chất đạm đòi hỏi gia tăng. Nhu cầu chất đạm tùy thuộc vào sự quân bình nitrogen. Nghiên cứu sự quân bình nitrogen cho chúng ta biết chúng ta cần bao nhiêu chất đạm để có thể thỏa mãn nhu cầu đòi hỏi của nitrogen. Sự quân bình nitrogen dùng để thiết lập chỉ số khuyến cáo khẩu phần ăn chất đạm RDA (recommended dietary allowance). RDA chất đạm cho phái nam trưởng thành là 63 grams và phụ nữ trưởng thành là 50 grams. Đây là chỉ số của người Hoa Kỳ và chỉ số RDA chất đạm cho người Tích Lan ít hơn nhiều. Nhu cầu chất đạm không những tùy thuộc nơi trọng lượng thực sự của cơ thể mà còn tùy thuộc nơi trong lượng lý tưởng nữa (ideal body weight). Một cách cụ thể hơn, RDA chất đạm là 0.8 grams cho mỗi kilogram của trọng lượng lý tưởng.
ĂN CHAY và vấn đề CHẤT ĐẠM
Chất đạm trong chế độ ăn chay thường thấp hơn chất đạm trong chế độ ăn thịt. Do thực phẩm có nguồn gốc thực vật chứa ít chất đạm hơn thực phẩm có nguồn gốc thịt động vật và vì có sự giới hạn chất amino-acids, nên những người ăn chay cần phải ăn nhiều thực phẩm rau đậu hơn, cả lượng và loại. Chỉ số RDA lý tưởng cho người ăn chay thuần túy (vegans, pure vegetarians) là 1.0 gram chất đạm cho mỗi kilogram trong lượng cơ thể so sánh với 0.80 grams cho người ăn thịt. Người ăn chay thuần túy đạt được từ 11 đến 12 phần trăm nhiệt lượng từ chất đạm, trong khi đó những người ăn thịt đạt được từ 15 đến 17 phần trăm.
Những cuộc nghiên cứu đã cho biết rằng người ăn chay thuần túy vẫn có được đầy đủ chất đạm. Vì thế người ăn chay không cần phải làm thêm một điều gì đặc biệt để thỏa mãn nhu cầu chất đạm đòi hỏi. Chỉ ăn đủ calories, giữ trọng lượng lý tưởng cơ thể (6) và ăn nhiều loại thực phẩm rau đậu khác nhau như đậu nành, đậu lăng (lentils) và những thứ khác như đậu lima, khoai tây, rau bina (spinach), đậu hũ, bánh mì, gạo đỏ và đậu Hà Lan (peas). Một vài thực phẩm rau đậu như broccoli còn tốt hơn cả thịt bò.
Theo ADA (American Dietetic Association), không cần thiết phải ăn thật chính xác cho đủ amino-acids mỗi bữa ăn. Chất đạm ăn vào bữa ăn trước có thể phối hợp với chất đạm ăn vào bữa ăn tới để cải thiện phẩm chất nguồn đạm thiết yếu trong kho dự trữ của cơ thể.
Chất đạm thực vật có khả năng phòng ngừa bệnh tim mạch và tốt cho xương hơn. Dư thừa chất đạm có hại cho những người mang bệnh thận. (7) Khác với người ăn thịt, người ăn chay không có vấn đề thặng dư chất đạm.
Chú thích của người dịch:
(1) Enzyme có thể dịch là phân hóa tố, là một chất xúc tác dùng để gây mồi cho một phản ứng hóa học.
(2) Các nhà nghiên cứu khoa học cho biết dinh dưỡng bằng chất đạm thịt là nguyên nhân làm thất thoát calcium qua sự bài tiết. Họ cho hay càng ăn nhiều protein thịt càng nhiều lượng calcium bị bài tiết ra ngoài. (Anand CR et al. Effect of protein intake on calcium balance. J Nutr 104:695- 700, 1974; Fed Proc 40: 2429- 2433, 1981; Dietary protein increases urinary calcium. J Nutr 120:134-136, 1989).
(3) Gelatin có thể dịch là chất đông sương, là một chất không mùi vị, lấy được bằng cách nấu xương, móng và các phần khác của động vật hay bằng cách nấu thực vật. Khi để nguội lại sẽ đông đặc thành chất nhờn, được dùng làm thực phẩm, dùng trong kỹ nghệ phim ảnh, và y khoa.
(4) Mỗi loại chất đạm có độ dễ tiêu hóa khác nhau. Chất đạm thực vật, dạng tươi sống, có độ dễ tiêu hóa thấp hơn chất đạm thịt. Tuy nhiên, bằng phương pháp nấu chín và biến chế có thể gia tăng độ dễ tiêu hóa. Ví dụ khi biến chế đậu nành thành đậu hũ, độ dễ tiêu hóa còn cao hơn độ dễ tiêu hóa chất đạm thịt.
(5) Calorie là nhiệt lượng, đơn vị dùng để đo năng lượng do thức ăn sinh ra
(6) Nếu trọng lượng cơ thể nặng 20 phần trăm nhiều hơn lý tưởng thì xem là bị mập. Nói một cách chính xác hơn, nếu con số Body Mass Index (BMI) cao hơn 30 thì bị gọi là mập. Có hai cách tính: (1)
Body Mass Index (BMI)=[Trọng lượng cơ thể (Kg)/Chiều cao(Meter)]/Chiều cao(Meter). Thí dụ như một người cân nặng 80 kg và cao 1,6 meter thì BMI sẽ bằng 31. (BMI=80:1,6:1,6).
Cách tính thứ hai là (1) nhân trọng lượng cơ thể bằng pound với 703 (2) nhân chiều cao bằng inches với chính nó (3) chia số thứ nhất cho số thứ hai là có trị số BMI. Thí dụ trong lượng cơ thể là 145 pounds, chiều cao là 5 feet 4 inches: BMI= [145 x 703]/[64 x 64] = 25
(7) Tiêu thụ nhiều chất đạm thịt động vật có thể làm hư hại thận bởi vì thận phải làm việc nhiều hơn trong nỗ lực lọc bỏ chất ammonia, phó sản của tiến trình metabolism thực phẩm. Chất đạm thực vật không có tác dụng này. (Robertson PJ et al. The effect of high animal protein intake on the risk of calcium ston-formation in the urinary tract. Clinical Science 1979;57:285-288)
http://www.tapchithegioimoi.com/tm.php?recordID=2387
7 cách giảm cân thú vị của người Nhật
7 cách giảm cân thú vị của người Nhật
bangson cập nhật ngày: 21/05/2011
Bạn biết rằng một trong những cách giảm cân hiệu quả là giấm nhưng bạn cũng nghe nói nó gây hại cho sức khỏe.
Thực tế là giấm chỉ gây hại khi loại giấm bạn dùng không phải là giấm lên men tự nhiên. Vậy làm thế nào để phân biệt 2 loại giấm này?
Giảm cân bằng… huýt sáo
Khi huýt sáo, các cơ miệng và má sẽ ở căng hơn bình thường, các cơ vốn ít được sử dụng khi nói sẽ được dịp vận động. Có thể coi đây như hành động mát xa toàn bộ khuôn mặt, giúp chống lão hoá và có tác dụng làm đẹp.
Ngoài ra, do khi huýt sáo sẽ phải hít thở bằng bụng nên đây cũng là một trong những cách giảm cân, rèn luyện sức khoẻ và được phổ biến rộng rãi dưới hình thức lớp học cùng các loại hình khác như yoga tại Nhật.
Giảm cân bằng việc dừng ăn
Mỗi tuần sẽ có 2 ngày không ăn bữa chính, chỉ ăn các thức như cháo trắng, sữa đậu nành, nước quả ép… để thay thế cho các loại thịt cá trong 3 bữa bình thường.
Cách làm này có tác dụng thanh lọc các chất thải trong cơ thể, giúp dạ dày và ruột hoạt động tốt hơn, làn da cũng sáng mịn hơn. Phương pháp này khá đơn giản nên gần đây trở thành cách giảm cân được yêu thích của phụ nữ Nhật.
Xoa da để… giảm cân
Công cuộc giảm cân cần có những “phát kiến mới”. Gần đây, giới y học Nhật đã phát hiện ra một cách tự nhiên để giảm cân, tin hay không tuỳ bạn! Dùng 2 ngón cái và ngón trỏ xoa phần da bụng, mỗi lần 5 phút, liên tục trong 1 tháng sẽ giúp bạn giảm cân rõ rệt.
Giảm cân với nước… có ga
Đây là một chiêu thức lạ trong cách giảm cân mới tại Nhật. Thường người béo do hay có cảm giác đói, hoặc ham muốn ăn nhiều, khiến vô thức nạp vào cơ thể quá nhiều nhiệt lượng. Công dụng chính của nước có ga là bổ sung lượng nước, đồng thời làm tăng cảm giác no nê cho cơ thể, khống chế cơn thèm ăn, giúp cơ thể nạp lượng nhiệt vừa phải, nhờ đó mang lại công hiệu giảm cân.
Giảm cân bằng… ngủ
Sau khi sinh nở, đa số chị em thường có vòng eo quá khổ. Các nhà nghiên cứu Nhật đã phát minh ra loại áo ngủ giảm béo tự nhiên rất mềm mại, nhẹ nhàng giúp chị em có thể giảm cân ngay cả trong giấc ngủ. Loại áo ngủ này luôn giữ nhiệt độ cơ thể ở 33-37oC, là nhiệt độ lý tưởng để ra mồ hôi, giúp lượng mồ hôi được bài thải ra khỏi cơ thể cao gấp 3-5 lần người bình thường khi ngủ. Mỗi ngày đều như vậy, chẳng mấy chốc sẽ giúp chị em thấy được hiệu quả giảm cân rất rõ rệt.
Giảm cân bằng… giấm
Ở Nhật cũng dấy lên làn sóng ăn giấm giảm cân. Theo nghiên cứu, ăn giấm không chỉ giúp tiêu trừ hiện tượng táo bón, điều chỉnh môi trường axit và kiềm trong cơ thể, mà còn có hiệu quả giảm cân rõ rệt.
Tất nhiên, theo các chuyên gia hiệu quả của giấm hoá học và giấm tự nhiên hoàn toàn khác nhau. Loại giấm lên men tự nhiên nhìn bên ngoài có chất kết tủa, màu cũng sẫm hơn, sau khi lắc bọt sẽ từ từ biến mất, còn với giấm hoá học bọt sẽ biến mất ngay sau khi lắc đều. Bởi vậy, nếu bạn thực sự muốn thử phương pháp này, nên chọn giấm tự nhiên để giảm cân.
Dầu ăn giúp… bài thải mỡ giúp giảm cân
Ăn các loại sản phẩm có chứa dầu ôliu, và các loại dầu cá có chứa omega 3…để giảm cân đang là cơn sốt của các chị em ở Nhật
Thực nghiệm đã chứng minh, các loại dầu chứa hàm lượng GLA cao như dầu hạt hoa hồng, dầu hạt cây đay… có thể giúp tiêu hao lượng mỡ thừa bị tích lại trong các cơ, chuyển hoá axit béo thành năng lượng, tăng cường tỉ lệ đốt cháy calo của cơ thể. Kết hợp lượng vận động phù hợp với việc tăng cường nạp vào cơ thể các loại dầu trên sẽ giúp cơ thể trở nên gọn gàng, khoẻ khoắn.
http://tretoday.net/news/news/55_Suc_Khoe/473290_7_cach_giam_can_thu_vi_cua_nguoi_Nhat_/?
bangson cập nhật ngày: 21/05/2011
Bạn biết rằng một trong những cách giảm cân hiệu quả là giấm nhưng bạn cũng nghe nói nó gây hại cho sức khỏe.
Thực tế là giấm chỉ gây hại khi loại giấm bạn dùng không phải là giấm lên men tự nhiên. Vậy làm thế nào để phân biệt 2 loại giấm này?
Giảm cân bằng… huýt sáo
Khi huýt sáo, các cơ miệng và má sẽ ở căng hơn bình thường, các cơ vốn ít được sử dụng khi nói sẽ được dịp vận động. Có thể coi đây như hành động mát xa toàn bộ khuôn mặt, giúp chống lão hoá và có tác dụng làm đẹp.
Ngoài ra, do khi huýt sáo sẽ phải hít thở bằng bụng nên đây cũng là một trong những cách giảm cân, rèn luyện sức khoẻ và được phổ biến rộng rãi dưới hình thức lớp học cùng các loại hình khác như yoga tại Nhật.
Giảm cân bằng việc dừng ăn
Mỗi tuần sẽ có 2 ngày không ăn bữa chính, chỉ ăn các thức như cháo trắng, sữa đậu nành, nước quả ép… để thay thế cho các loại thịt cá trong 3 bữa bình thường.
Cách làm này có tác dụng thanh lọc các chất thải trong cơ thể, giúp dạ dày và ruột hoạt động tốt hơn, làn da cũng sáng mịn hơn. Phương pháp này khá đơn giản nên gần đây trở thành cách giảm cân được yêu thích của phụ nữ Nhật.
Xoa da để… giảm cân
Công cuộc giảm cân cần có những “phát kiến mới”. Gần đây, giới y học Nhật đã phát hiện ra một cách tự nhiên để giảm cân, tin hay không tuỳ bạn! Dùng 2 ngón cái và ngón trỏ xoa phần da bụng, mỗi lần 5 phút, liên tục trong 1 tháng sẽ giúp bạn giảm cân rõ rệt.
Giảm cân với nước… có ga
Đây là một chiêu thức lạ trong cách giảm cân mới tại Nhật. Thường người béo do hay có cảm giác đói, hoặc ham muốn ăn nhiều, khiến vô thức nạp vào cơ thể quá nhiều nhiệt lượng. Công dụng chính của nước có ga là bổ sung lượng nước, đồng thời làm tăng cảm giác no nê cho cơ thể, khống chế cơn thèm ăn, giúp cơ thể nạp lượng nhiệt vừa phải, nhờ đó mang lại công hiệu giảm cân.
Giảm cân bằng… ngủ
Sau khi sinh nở, đa số chị em thường có vòng eo quá khổ. Các nhà nghiên cứu Nhật đã phát minh ra loại áo ngủ giảm béo tự nhiên rất mềm mại, nhẹ nhàng giúp chị em có thể giảm cân ngay cả trong giấc ngủ. Loại áo ngủ này luôn giữ nhiệt độ cơ thể ở 33-37oC, là nhiệt độ lý tưởng để ra mồ hôi, giúp lượng mồ hôi được bài thải ra khỏi cơ thể cao gấp 3-5 lần người bình thường khi ngủ. Mỗi ngày đều như vậy, chẳng mấy chốc sẽ giúp chị em thấy được hiệu quả giảm cân rất rõ rệt.
Giảm cân bằng… giấm
Ở Nhật cũng dấy lên làn sóng ăn giấm giảm cân. Theo nghiên cứu, ăn giấm không chỉ giúp tiêu trừ hiện tượng táo bón, điều chỉnh môi trường axit và kiềm trong cơ thể, mà còn có hiệu quả giảm cân rõ rệt.
Tất nhiên, theo các chuyên gia hiệu quả của giấm hoá học và giấm tự nhiên hoàn toàn khác nhau. Loại giấm lên men tự nhiên nhìn bên ngoài có chất kết tủa, màu cũng sẫm hơn, sau khi lắc bọt sẽ từ từ biến mất, còn với giấm hoá học bọt sẽ biến mất ngay sau khi lắc đều. Bởi vậy, nếu bạn thực sự muốn thử phương pháp này, nên chọn giấm tự nhiên để giảm cân.
Dầu ăn giúp… bài thải mỡ giúp giảm cân
Ăn các loại sản phẩm có chứa dầu ôliu, và các loại dầu cá có chứa omega 3…để giảm cân đang là cơn sốt của các chị em ở Nhật
Thực nghiệm đã chứng minh, các loại dầu chứa hàm lượng GLA cao như dầu hạt hoa hồng, dầu hạt cây đay… có thể giúp tiêu hao lượng mỡ thừa bị tích lại trong các cơ, chuyển hoá axit béo thành năng lượng, tăng cường tỉ lệ đốt cháy calo của cơ thể. Kết hợp lượng vận động phù hợp với việc tăng cường nạp vào cơ thể các loại dầu trên sẽ giúp cơ thể trở nên gọn gàng, khoẻ khoắn.
http://tretoday.net/news/news/55_Suc_Khoe/473290_7_cach_giam_can_thu_vi_cua_nguoi_Nhat_/?
Thursday, May 19, 2011
5 loại thực phẩm nên dùng trước khi ngủ
5 loại thực phẩm nên dùng trước khi ngủ
Thứ tư - 05/18/2011 12:23
Text size
Planets
Share this story
Share on Facebook Share on Twitter Share on Google Share on Buzz
Story tools
Email print
Ăn uống trước giờ đi ngủ thường bị coi là nguyên nhân tăng cân. Nhưng thực tế có những loại thực phẩm ăn trước khi ngủ vừa tốt cho sức khỏe vừa có tác dụng giảm cân.
1. Mật ong
Axit béo có trong mật ong có tác dụng thúc đẩy tăng nhu động ruột. Các vitamin và khoáng chất cũng giúp điều chỉnh chức năng của bộ máy tiêu hóa, giúp đẩy độc tố ra khỏi cơ thể, cải thiện tình trạng táo bón.
Các glucose và fructose trong mật ong cũng không được cơ thể hấp thụ trực tiếp nên không lo về việc tích lũy chất béo trong cơ thể. Ngoài ra lượng calo trong mật ong rất ít,100g mật ong chỉ chứa 294 calo nên có tác dụng giảm cân rất tốt
Một tách mật ong với nước ấm trước khi đi ngủ giúp giải độc, thúc đẩy sự trao đổi chất, đốt cháy lượng mỡ thừa trong cơ thể giúp cho bụng bạn thon gọn. Bạn có thể pha mật ong với một chút nước ép dưa chuột để tăng hiệu quả giảm cân.
2. Sữa
Trước khi ngủ uống một cốc sữa không giúp bạn dễ dàng vào giấc ngủ hơn thế nó còn có tác dụng giảm cân. Sữa rất giàu canxi, uống sữa trước khi đi ngủ có thể thúc đẩy hấp thụ canxi. Protein trong sữa giúp đốt cháy lượng mỡ thừa của cơ thể.
675054750_110518afamilyskantruockhingu1.
Thành phần chính của sữa là protein nên không thể được hấp thụ nhanh chóng, nên uống một cốc sữa trước khi ngủ sẽ giúp bạn bù đắp năng lượng tiêu hao trong một đêm và sang hôm sau sẽ không cảm thấy đói cồn cào.
Trong sữa cũng có một lượng nhiệt lượng nhất định, thế nên muốn giảm cân bạn hãy chọn những loại sữa không đường và ít chất béo. Bạn nên uống sữa trước khi đi ngủ 2h, như vậy hiệu quả giảm cân sẽ tốt hơn.
3. Hạnh nhân
Hạnh nhân rất giàu protein, chất béo, carbohydrate, carotene, vitamin B, vitamin C, vitamin P, và canxi, phốt pho, sắt và chất dinh dưỡng khác. Ngoài ra trong hạnh nhân còn chứa các axit béo không bão hòa đơn có tác dụng giảm lipid trong máu, giúp bạn giảm cân mà không cần một chế độ ăn nghiêm ngặt.
Trong hạnh nhân còn có chứa lượng lớn chất xơ, giúp giảm các cơn đói, giúp bạn duy trì vóc dáng của mình. Ăn vài hạt hạnh nhân hoặc uống một tách trà hạnh nhân trước khi đi ngủ giúp bạn không chỉ no bụng mà còn không sợ béo.
2126147520_110518afamilyskantruockhingu2
4. Yến mạch
Yến mạch giàu chất xơ hòa tan và không hòa tan, có thể hấp thu một lượng lớn cholesterol trong cơ thể và bài tiết ra ngoài giúp giảm tình trạng táo bón và giảm lượng mỡ thừa trong cơ thể.
Trong yến mạch cũng rất giàu vitamin B, niacin, acid folic, acid pantothenic, vitamin E, có tác dụng hạ đường huyết rất tốt, giúp giảm cân hiệu quả, còn cải thiện tuần hoàn máu, thúc đẩy trao đổi chất, giảm tích tụ chất thải trong cơ thể và cho bạn một cơ thể khỏe mạnh.
Nếu trước khi đi ngủ thấy đói hãy ăn một bát cháo yến mạch (khoảng 100g) sẽ rất tốt cho cơ thể.
5. Bánh giúp tiêu hóa
Loại bánh này được làm hoàn toàn bằng lúa mì, yến mạch nguyên chất, gồm các loại bánh yến mạch, bánh mầm yến mạch, chất xơ cám bánh, sợi thô, bánh bột mì, bánh mì lúa mì. Các loại bánh này chứa rất ít năng lượng thường là 50 calo/chiếc, trong khi đó bánh quy sôcôla là 109calo/chiếc. Ngoài ra nó còn chứa lượng lớn chất xơ và enzyme giúp giảm cân.
http://clickvao.com/news/others/5-loai-thuc-pham-nen-dung-truoc-khi-ngu-27949/
Thứ tư - 05/18/2011 12:23
Text size
Planets
Share this story
Share on Facebook Share on Twitter Share on Google Share on Buzz
Story tools
Email print
Ăn uống trước giờ đi ngủ thường bị coi là nguyên nhân tăng cân. Nhưng thực tế có những loại thực phẩm ăn trước khi ngủ vừa tốt cho sức khỏe vừa có tác dụng giảm cân.
1. Mật ong
Axit béo có trong mật ong có tác dụng thúc đẩy tăng nhu động ruột. Các vitamin và khoáng chất cũng giúp điều chỉnh chức năng của bộ máy tiêu hóa, giúp đẩy độc tố ra khỏi cơ thể, cải thiện tình trạng táo bón.
Các glucose và fructose trong mật ong cũng không được cơ thể hấp thụ trực tiếp nên không lo về việc tích lũy chất béo trong cơ thể. Ngoài ra lượng calo trong mật ong rất ít,100g mật ong chỉ chứa 294 calo nên có tác dụng giảm cân rất tốt
Một tách mật ong với nước ấm trước khi đi ngủ giúp giải độc, thúc đẩy sự trao đổi chất, đốt cháy lượng mỡ thừa trong cơ thể giúp cho bụng bạn thon gọn. Bạn có thể pha mật ong với một chút nước ép dưa chuột để tăng hiệu quả giảm cân.
2. Sữa
Trước khi ngủ uống một cốc sữa không giúp bạn dễ dàng vào giấc ngủ hơn thế nó còn có tác dụng giảm cân. Sữa rất giàu canxi, uống sữa trước khi đi ngủ có thể thúc đẩy hấp thụ canxi. Protein trong sữa giúp đốt cháy lượng mỡ thừa của cơ thể.
675054750_110518afamilyskantruockhingu1.
Thành phần chính của sữa là protein nên không thể được hấp thụ nhanh chóng, nên uống một cốc sữa trước khi ngủ sẽ giúp bạn bù đắp năng lượng tiêu hao trong một đêm và sang hôm sau sẽ không cảm thấy đói cồn cào.
Trong sữa cũng có một lượng nhiệt lượng nhất định, thế nên muốn giảm cân bạn hãy chọn những loại sữa không đường và ít chất béo. Bạn nên uống sữa trước khi đi ngủ 2h, như vậy hiệu quả giảm cân sẽ tốt hơn.
3. Hạnh nhân
Hạnh nhân rất giàu protein, chất béo, carbohydrate, carotene, vitamin B, vitamin C, vitamin P, và canxi, phốt pho, sắt và chất dinh dưỡng khác. Ngoài ra trong hạnh nhân còn chứa các axit béo không bão hòa đơn có tác dụng giảm lipid trong máu, giúp bạn giảm cân mà không cần một chế độ ăn nghiêm ngặt.
Trong hạnh nhân còn có chứa lượng lớn chất xơ, giúp giảm các cơn đói, giúp bạn duy trì vóc dáng của mình. Ăn vài hạt hạnh nhân hoặc uống một tách trà hạnh nhân trước khi đi ngủ giúp bạn không chỉ no bụng mà còn không sợ béo.
2126147520_110518afamilyskantruockhingu2
4. Yến mạch
Yến mạch giàu chất xơ hòa tan và không hòa tan, có thể hấp thu một lượng lớn cholesterol trong cơ thể và bài tiết ra ngoài giúp giảm tình trạng táo bón và giảm lượng mỡ thừa trong cơ thể.
Trong yến mạch cũng rất giàu vitamin B, niacin, acid folic, acid pantothenic, vitamin E, có tác dụng hạ đường huyết rất tốt, giúp giảm cân hiệu quả, còn cải thiện tuần hoàn máu, thúc đẩy trao đổi chất, giảm tích tụ chất thải trong cơ thể và cho bạn một cơ thể khỏe mạnh.
Nếu trước khi đi ngủ thấy đói hãy ăn một bát cháo yến mạch (khoảng 100g) sẽ rất tốt cho cơ thể.
5. Bánh giúp tiêu hóa
Loại bánh này được làm hoàn toàn bằng lúa mì, yến mạch nguyên chất, gồm các loại bánh yến mạch, bánh mầm yến mạch, chất xơ cám bánh, sợi thô, bánh bột mì, bánh mì lúa mì. Các loại bánh này chứa rất ít năng lượng thường là 50 calo/chiếc, trong khi đó bánh quy sôcôla là 109calo/chiếc. Ngoài ra nó còn chứa lượng lớn chất xơ và enzyme giúp giảm cân.
http://clickvao.com/news/others/5-loai-thuc-pham-nen-dung-truoc-khi-ngu-27949/
Tuesday, May 10, 2011
Thắt dạ dày bằng... thực phẩm
Thắt dạ dày bằng... thực phẩm
Thứ ba - 05/10/2011 10:08
Text size
Planets
Share this story
Share on Facebook Share on Twitter Share on Google Share on Buzz
Story tools
Email print
Có những loại thực phẩm khiến giảm cơn thèm ăn và từ đó giúp bạn giảm cân mà không cần phải tốn tiền vào viện phẫu thuật thắt dạ dày.
Táo
Kết quả nghiên cứu của Mỹ cho thấy táo là vũ khí hiệu quả trong cuộc chiến chống giặc béo, giúp bạn ăn ít hơn 15% calorie vào bữa chính. Sau khi tiêu hóa táo, ruột sản sinh hormone GLP-1 gửi thẳng đến não thông điệp rằng bạn đã no rồi và không cần ăn thêm gì nữa. Nên nhai một quả táo trước bữa ăn khoảng 15 phút mới có kết quả.
Ớt đỏ
Daily Mail dẫn nghiên cứu của Đại học Purdue (Mỹ) cho thấy kèm thêm ớt trong bữa ăn làm giảm đi cơn đói mà lại tăng cường năng lượng cho bạn, nhờ vào thành phần capsaicin có trong loại gia vị này. Ớt khô lẫn ớt tươi đều mang lại hiệu quả tương tự. Nên trộn nửa muỗng cà phê ớt vào món ăn, nhất là những món có nhiều chất béo hay ngọt.
Tảo
Nên khởi đầu một ngày bằng cốc tảo xay để giữ thân hình gọn gàng. Các chuyên gia Hà Lan phát hiện bỏ tảo vào ly nước uống có thể giảm cơn đói đến 30% và giúp người ăn kiêng có được cảm giác no nê trong bữa ăn. Theo giới khoa học, trước khi đến bao tử, tảo biến thành gel và làm chậm đi quá trình tiêu hóa thức ăn, bắt chước hiệu ứng khi cơ thể hấp thụ thức ăn đặc. Hiệp hội Dinh dưỡng Mỹ cho rằng tảo có thể ngăn tình trạng thèm ăn giữa các bữa.
Trà xanh
Chuyên san American Journal of Clinical Nutrition vừa đưa tin trà xanh chứa catechin, một thành phần có thể kích hoạt cơ thể đốt cháy nhiều calorie hơn. Theo đó, uống từ 3 đến 6 tách trà xanh mỗi ngày có thể đẩy nhanh thời gian đốt cháy năng lượng tế bào đến 40%, đồng thời thúc đẩy tỷ lệ tiêu mỡ.
1568674598_QueChanh2.jpg
Quế, chanh... - Ảnh: Shutterstock - Thái Nguyên
Chanh
Chanh chứa pectin, một chất nhầy và sợi tự nhiên, có tác dụng thu dọn mỡ tích trữ trong cơ thể, và làm chậm quá trình tiêu hóa khiến bạn có cảm giác no lâu hơn, từ đó ăn ít đi. Vitamin C có trong chanh cũng giúp bạn sản sinh carnitine, một loại amino acid khuyến khích cơ thể đốt mỡ, theo nghiên cứu của Đại học bang Arizona (Mỹ).
Tỏi
Các nhà nghiên cứu Israel phát hiện rằng tỏi không chỉ ngăn cản chuyện tăng cân mà nó còn giúp bạn ốm đi. Điểm mấu chốt của tỏi là hợp chất gọi là allicin, có tác dụng kích thích trung tâm chịu trách nhiệm về cảm giác no nê ở não, làm giảm cảm giác đói. Allicin cũng kích hoạt hệ thống thần kinh để tiết ra hormone như adrenalin, làm tăng tốc độ trao đổi chất và khiến cơ thể đốt được nhiều calorie hơn.
Quế
Theo nghiên cứu đăng trên chuyên san American Journal of Clinical Nutrition, quế giúp sản sinh ít insulin sau bữa ăn. Do insulin là hormone biến đường thừa thành mỡ, điều này có nghĩa là bạn ít bị tích mỡ nhờ quế. Gia vị này còn giúp làm chậm quá trình tiêu hóa thức ăn trong bao tử, khiến bạn cảm thấy no lâu hơn.
http://clickvao.com/news/others/That-da-day-bang-thuc-pham-27538/
Thứ ba - 05/10/2011 10:08
Text size
Planets
Share this story
Share on Facebook Share on Twitter Share on Google Share on Buzz
Story tools
Email print
Có những loại thực phẩm khiến giảm cơn thèm ăn và từ đó giúp bạn giảm cân mà không cần phải tốn tiền vào viện phẫu thuật thắt dạ dày.
Táo
Kết quả nghiên cứu của Mỹ cho thấy táo là vũ khí hiệu quả trong cuộc chiến chống giặc béo, giúp bạn ăn ít hơn 15% calorie vào bữa chính. Sau khi tiêu hóa táo, ruột sản sinh hormone GLP-1 gửi thẳng đến não thông điệp rằng bạn đã no rồi và không cần ăn thêm gì nữa. Nên nhai một quả táo trước bữa ăn khoảng 15 phút mới có kết quả.
Ớt đỏ
Daily Mail dẫn nghiên cứu của Đại học Purdue (Mỹ) cho thấy kèm thêm ớt trong bữa ăn làm giảm đi cơn đói mà lại tăng cường năng lượng cho bạn, nhờ vào thành phần capsaicin có trong loại gia vị này. Ớt khô lẫn ớt tươi đều mang lại hiệu quả tương tự. Nên trộn nửa muỗng cà phê ớt vào món ăn, nhất là những món có nhiều chất béo hay ngọt.
Tảo
Nên khởi đầu một ngày bằng cốc tảo xay để giữ thân hình gọn gàng. Các chuyên gia Hà Lan phát hiện bỏ tảo vào ly nước uống có thể giảm cơn đói đến 30% và giúp người ăn kiêng có được cảm giác no nê trong bữa ăn. Theo giới khoa học, trước khi đến bao tử, tảo biến thành gel và làm chậm đi quá trình tiêu hóa thức ăn, bắt chước hiệu ứng khi cơ thể hấp thụ thức ăn đặc. Hiệp hội Dinh dưỡng Mỹ cho rằng tảo có thể ngăn tình trạng thèm ăn giữa các bữa.
Trà xanh
Chuyên san American Journal of Clinical Nutrition vừa đưa tin trà xanh chứa catechin, một thành phần có thể kích hoạt cơ thể đốt cháy nhiều calorie hơn. Theo đó, uống từ 3 đến 6 tách trà xanh mỗi ngày có thể đẩy nhanh thời gian đốt cháy năng lượng tế bào đến 40%, đồng thời thúc đẩy tỷ lệ tiêu mỡ.
1568674598_QueChanh2.jpg
Quế, chanh... - Ảnh: Shutterstock - Thái Nguyên
Chanh
Chanh chứa pectin, một chất nhầy và sợi tự nhiên, có tác dụng thu dọn mỡ tích trữ trong cơ thể, và làm chậm quá trình tiêu hóa khiến bạn có cảm giác no lâu hơn, từ đó ăn ít đi. Vitamin C có trong chanh cũng giúp bạn sản sinh carnitine, một loại amino acid khuyến khích cơ thể đốt mỡ, theo nghiên cứu của Đại học bang Arizona (Mỹ).
Tỏi
Các nhà nghiên cứu Israel phát hiện rằng tỏi không chỉ ngăn cản chuyện tăng cân mà nó còn giúp bạn ốm đi. Điểm mấu chốt của tỏi là hợp chất gọi là allicin, có tác dụng kích thích trung tâm chịu trách nhiệm về cảm giác no nê ở não, làm giảm cảm giác đói. Allicin cũng kích hoạt hệ thống thần kinh để tiết ra hormone như adrenalin, làm tăng tốc độ trao đổi chất và khiến cơ thể đốt được nhiều calorie hơn.
Quế
Theo nghiên cứu đăng trên chuyên san American Journal of Clinical Nutrition, quế giúp sản sinh ít insulin sau bữa ăn. Do insulin là hormone biến đường thừa thành mỡ, điều này có nghĩa là bạn ít bị tích mỡ nhờ quế. Gia vị này còn giúp làm chậm quá trình tiêu hóa thức ăn trong bao tử, khiến bạn cảm thấy no lâu hơn.
http://clickvao.com/news/others/That-da-day-bang-thuc-pham-27538/
Wednesday, May 4, 2011
Wednesday, April 27, 2011
Bị viêm khớp nên ăn nhiều gừng
Bị viêm khớp nên ăn nhiều gừng
Thứ ba - 04/26/2011 23:16
Text size
Planets
Share this story
Share on Facebook Share on Twitter Share on Google Share on Buzz
Story tools
Email print
Theo các bác sĩ, gừng là một “vũ khí mạnh” để chống lại một số loại viêm gây đau, nhất là viêm khớp gây đau đớn cho người bệnh.
1988082953_gung_26411.jpg
101 công dụng của gừng
Theo Tạp chí Dược Thực phẩm, nhà nghiên cứu Nhật Bản Huffington Post cho biết: “ Gừng đỏ được sử dụng trong y học truyền thống của Indonesia như một loại thuốc giảm đau cho các bệnh viêm khớp”.
Gừng còn giúp tăng cường lưu thông máu, có lợi cho hệ tim mạch, huyết thanh và cải thiện chất béo trung tính, cholesterol HDL và mức độ cholesterol VLDL. Nó làm giảm mỡ trong máu, làm giảm quá trình oxy hoá LDL và ngăn ngừa mảng bám động mạch. Khi gừng được kết hợp với tỏi thì nó còn đem lại rất nhiều lợi ích khác cho sức khoẻ.
Không chỉ vậy, gừng khuyến khích tiêu hoá, chữa đau dạ dày, chống buồn nôn, kích thích chuyển hoá thức ăn qua đường ruột, giảm độc tố trong ruột, tăng bài tiết dịch tiêu hoá và hạn chế khó chịu ở bụng, đầy hơi.
Giảm đờm trong phổi và thích hợp khi bị cảm lạnh. Giảm ốm nghén cho phụ nữ mang thai khi dùng khoảng 1.000 - 1.500mg gừng khô.
Món ăn từ gừng
Để ăn được nhiều gừng hơn trong chế độ ăn uống, bạn có thể sử dụng gừng theo một số gợi ý sau:
- Gừng tươi: Gừng thực sự rất dễ sử dụng trong nhiều món ăn, sau khi cạo vỏ bạn có thể cắt lát hoặc giã nhỏ nấu chín trực tiếp cùng với các món ăn.
- Bột gừng: Nếu bạn không thích gừng tươi hoặc chưa kịp mua thì có thể dự trữ gia vị bột gừng. Nó rất tiện lợi cho nấu nướng, các món súp, món hầm, ướp gia vị. Có thể thêm 1 muỗng cà phê bột gừng vào tách trà để thưởng thức trong ngày.
- Trà gừng: Bạn có thể dùng trà gừng để bổ sung thêm nước cho cơ thể, ngoài ra bạn cũng có thể chế thêm gừng tươi vào nước sôi để khoảng 2 đến 3 phút.
http://clickvao.com/news/others/Bi-viem-khop-nen-an-nhieu-gung-26889/
Thứ ba - 04/26/2011 23:16
Text size
Planets
Share this story
Share on Facebook Share on Twitter Share on Google Share on Buzz
Story tools
Email print
Theo các bác sĩ, gừng là một “vũ khí mạnh” để chống lại một số loại viêm gây đau, nhất là viêm khớp gây đau đớn cho người bệnh.
1988082953_gung_26411.jpg
101 công dụng của gừng
Theo Tạp chí Dược Thực phẩm, nhà nghiên cứu Nhật Bản Huffington Post cho biết: “ Gừng đỏ được sử dụng trong y học truyền thống của Indonesia như một loại thuốc giảm đau cho các bệnh viêm khớp”.
Gừng còn giúp tăng cường lưu thông máu, có lợi cho hệ tim mạch, huyết thanh và cải thiện chất béo trung tính, cholesterol HDL và mức độ cholesterol VLDL. Nó làm giảm mỡ trong máu, làm giảm quá trình oxy hoá LDL và ngăn ngừa mảng bám động mạch. Khi gừng được kết hợp với tỏi thì nó còn đem lại rất nhiều lợi ích khác cho sức khoẻ.
Không chỉ vậy, gừng khuyến khích tiêu hoá, chữa đau dạ dày, chống buồn nôn, kích thích chuyển hoá thức ăn qua đường ruột, giảm độc tố trong ruột, tăng bài tiết dịch tiêu hoá và hạn chế khó chịu ở bụng, đầy hơi.
Giảm đờm trong phổi và thích hợp khi bị cảm lạnh. Giảm ốm nghén cho phụ nữ mang thai khi dùng khoảng 1.000 - 1.500mg gừng khô.
Món ăn từ gừng
Để ăn được nhiều gừng hơn trong chế độ ăn uống, bạn có thể sử dụng gừng theo một số gợi ý sau:
- Gừng tươi: Gừng thực sự rất dễ sử dụng trong nhiều món ăn, sau khi cạo vỏ bạn có thể cắt lát hoặc giã nhỏ nấu chín trực tiếp cùng với các món ăn.
- Bột gừng: Nếu bạn không thích gừng tươi hoặc chưa kịp mua thì có thể dự trữ gia vị bột gừng. Nó rất tiện lợi cho nấu nướng, các món súp, món hầm, ướp gia vị. Có thể thêm 1 muỗng cà phê bột gừng vào tách trà để thưởng thức trong ngày.
- Trà gừng: Bạn có thể dùng trà gừng để bổ sung thêm nước cho cơ thể, ngoài ra bạn cũng có thể chế thêm gừng tươi vào nước sôi để khoảng 2 đến 3 phút.
http://clickvao.com/news/others/Bi-viem-khop-nen-an-nhieu-gung-26889/
Tuesday, April 26, 2011
Đẹp da, đã khát với nước chanh lô hội
Đẹp da, đã khát với nước chanh lô hội
Thứ năm - 04/14/2011 11:15
Text size
Planets
Share this story
Share on Facebook Share on Twitter Share on Google Share on Buzz
Story tools
Email print
Tác dụng dưỡng da của lô hội được không ít người biết đến, tuy nhiên dùng lô hội như một thứ đồ uống giải khát thì không phải ai cũng biết cách. Mời bạn cùng thử nhé!
804728412_110414afamily_AN_nuoc_chanh_lo
Nguyên liệu:
- 2 cây nhánh lô hội
- 3 quả chanh
- Nước lọc, đường
1516489637_110414afamily_AN_nuoc_chanh_l
Cách làm:
Lô hội mua về rửa sạch, gọt bỏ 2 đường gai ở hai bên. Cắt ra thành từng đoạn dài khoảng 5cm để gọt vỏ cho dễ:
1770515827_110414afamily_AN_nuoc_chanh_l
Gọt sạch phần vỏ xanh ở bên ngoài lô hội:
319137471_110414afamily_AN_nuoc_chanh_lo
Lúc này phần thịt trắng bên trong rất nhớt, bạn rửa sạch nhớt với nước lạnh nhé:
488431566_110414afamily_AN_nuoc_chanh_lo
Sau đó cắt nhỏ ra thành từng miếng vừa ăn:
792503013_a04110414afamily_AN_nuoc_chanh
Đặt một nồi nước sôi, thả lô hội vào luộc trong khoảng 1-2 phút rồi vớt ra, thả ngay vào vào bát nước đá đặt sẵn:
1116502986_110414afamily_AN_nuoc_chanh_l
Dùng 3 quả chanh để pha nước chanh như bình thường bạn vẫn pha, cho các viên lô hội vào ăn cùng:
1344649425_110414afamily_AN_nuoc_chanh_l
Nếu thích bạn có thể thêm đá nhé! Nước chanh lô hội không chỉ giải khát mà còn làm đẹp da hiệu quả cho bạn trong mùa hè này đấy.
http://clickvao.com/news/others/Dep-da-da-khat-voi-nuoc-chanh-lo-hoi-26212/
Thứ năm - 04/14/2011 11:15
Text size
Planets
Share this story
Share on Facebook Share on Twitter Share on Google Share on Buzz
Story tools
Email print
Tác dụng dưỡng da của lô hội được không ít người biết đến, tuy nhiên dùng lô hội như một thứ đồ uống giải khát thì không phải ai cũng biết cách. Mời bạn cùng thử nhé!
804728412_110414afamily_AN_nuoc_chanh_lo
Nguyên liệu:
- 2 cây nhánh lô hội
- 3 quả chanh
- Nước lọc, đường
1516489637_110414afamily_AN_nuoc_chanh_l
Cách làm:
Lô hội mua về rửa sạch, gọt bỏ 2 đường gai ở hai bên. Cắt ra thành từng đoạn dài khoảng 5cm để gọt vỏ cho dễ:
1770515827_110414afamily_AN_nuoc_chanh_l
Gọt sạch phần vỏ xanh ở bên ngoài lô hội:
319137471_110414afamily_AN_nuoc_chanh_lo
Lúc này phần thịt trắng bên trong rất nhớt, bạn rửa sạch nhớt với nước lạnh nhé:
488431566_110414afamily_AN_nuoc_chanh_lo
Sau đó cắt nhỏ ra thành từng miếng vừa ăn:
792503013_a04110414afamily_AN_nuoc_chanh
Đặt một nồi nước sôi, thả lô hội vào luộc trong khoảng 1-2 phút rồi vớt ra, thả ngay vào vào bát nước đá đặt sẵn:
1116502986_110414afamily_AN_nuoc_chanh_l
Dùng 3 quả chanh để pha nước chanh như bình thường bạn vẫn pha, cho các viên lô hội vào ăn cùng:
1344649425_110414afamily_AN_nuoc_chanh_l
Nếu thích bạn có thể thêm đá nhé! Nước chanh lô hội không chỉ giải khát mà còn làm đẹp da hiệu quả cho bạn trong mùa hè này đấy.
http://clickvao.com/news/others/Dep-da-da-khat-voi-nuoc-chanh-lo-hoi-26212/
Sunday, April 17, 2011
Nhiều rau dại quý như thuốc
Nhiều rau dại quý như thuốc
16-04-2011 18:49
Nhiều rau dại quý như thuốc
Nhiều loại rau dại rất tốt cho sức khỏe nhưng khi sử dụng cần biết rõ xuất xứ để đề phòng trường hợp chúng mọc trên vùng đất, nguồn nước bị ô nhiễm sẽ không an toàn cho sức khỏe
Trong khi nhiều người lo ngại về tính an toàn của các loại rau trồng trên thị trường thì câu người xưa nói “người khôn ăn rau dại” rất đáng được lưu ý. Sở dĩ như vậy là vì các loại rau dại thường có những ưu thế mà rau trồng không có được, như do mọc hoang nên ít bị ảnh hưởng của phân bón hóa học cũng như các loại nông dược; thu hái xong thường được sử dụng liền nên không cần đến những biện pháp bảo quản; đa số từng được sử dụng làm thuốc vì có ích cho sức khỏe khi được sử dụng thích hợp; hương vị đặc trưng, lạ miệng nên rất hấp dẫn. Tất nhiên đấy phải là những loại rau dại mà kinh nghiệm ông cha ta đã quen dùng.
Những rau dại thường gặp
- Rau má: Dùng ăn sống hay nấu canh đều tốt. Nếu nấu cháo thì dùng rau má tươi 100 g, đậu xanh 50 g, gạo tẻ 50 g, nấu ăn nóng với ít muối hoặc đường. Những món này đều có vị ngọt, tính mát, tác dụng thanh nhiệt, giải độc, lợi tiểu, thường dùng trong các trường hợp sốt, chảy máu cam, nôn ra máu, lỵ, táo bón do nhiệt, đi tiểu buốt, mụn nhọt, rôm sảy, ho, dãn tĩnh mạch, chức năng giải độc của gan suy yếu, sản phụ ít sữa...
- Chùm bao: Còn gọi là lạc tiên. Dân quê thường hái ngọn và trái, lá non dùng làm món luộc, xào, nấu canh với cá rô đồng. Những món này có tác dụng an thần, giải độc, chống dị ứng.
- Càng cua: Còn gọi là rau tiêu, mọc nhiều ở nơi ẩm thấp. Rau càng cua rửa sạch, chấm với các món kho hoặc mắm; làm gỏi bằng cách trộn với tép bạc tươi, thịt ba chỉ luộc, đậu phộng rang giã dập và rau húng quế, làm món xà lách với thịt bò, dầu giấm, trứng luộc; với cá mòi đóng hộp và hành tây…, đều là những món giúp lợi tiểu, thanh nhiệt, giải khát. Tuy nhiên, lưu ý là loại rau này không thích hợp cho những người sỏi thận.
- Lá lốt: Dùng ăn sống hoặc làm gia vị nấu canh cá, chả cá, lươn, ếch, ba ba, ốc, hến… vừa tạo hương vị thơm ngon vừa khử bớt khí hàn, khí thấp của thực phẩm, giảm bớt mùi tanh, giúp tiêu thực và chống dị ứng. Lá lốt gói các loại thịt như bò, heo, vịt, cua, cá, lươn, ốc… để nướng, chiên; làm rau xào thịt bò, heo, cá, lòng gà… rất ngon miệng, bổ dưỡng.
Người tiêu dùng rất dễ tìm mua các loại rau nhưng chưa thật sự an tâm lắm khi sử dụng. Ảnh: XUÂN THẢO
- Dớn: Thường được dùng luộc chấm nước mắm ngon, xào, làm gỏi…, đều có tác dụng thanh nhiệt, lợi tiểu, chống táo bón. Lưu ý trước khi chế biến phải trụng sơ qua với nước sôi.
- Bồ công anh: Làm rau ăn tươi, hấp chín, nấu canh hoặc nấu cháo… giúp nhuận gan, mật, giải độc, lợi tiểu, tăng cường sức đề kháng, chống loãng xương.
- Mớp gai: Nông dân thường lấy củ làm thuốc, lấy cọng xào tỏi hoặc xào với thịt bò. Những món ăn này rất có ích cho hoạt động của gan.
- Nhút: Dùng nấu canh cua, tôm… rất tốt khi cần thanh nhiệt, an thần.
- Quả bần chua: Dùng nấu canh chua có tác dụng giải khát, giải độc.
- Lá cách: Làm rau luộc ăn hoặc nấu canh có tác dụng trợ tiêu hóa, tiêu thực, nhuận gan, mật. Rắn bông súng xào lăn với lá cách, ba ba xào lá cách hoặc gà giò xào lá cách đều là những món ăn rất hấp dẫn và bổ dưỡng.
- Đinh lăng: Lấy lá làm rau ăn như rau mùi hoặc làm gỏi, bổ dưỡng mà lại chống dị ứng, giải độc.
- Ngổ: Dùng làm rau ăn giúp thanh nhiệt, lợi tiểu.
- Dấp cá: Ăn như gia vị, giúp giải độc, thanh nhiệt, lợi tiểu, nhuận trường.
- Cải trời: Luộc, xào hay nấu canh ăn đều giúp tan đờm, bớt ho. Trong tô canh rau tập tàng của vùng đất phương Nam thường có loại rau này.
Vùng cao nguyên Trung du có món gỏi lá, gồm nhiều loại lá ăn chung với cá, thịt heo, tôm, như lá ngải cứu, mơ lông, sung, đinh lăng, xoài, ổi, cóc, lạc tiên, trai, bứa, vừng, kim cang… Món gỏi này có đủ các vị chua, cay, đắng, chát vừa ngon miệng mà lại rất tốt cho sức khỏe.
Rau đắng đất: Ăn sống hoặc ăn với cháo cá lóc, cá rô đồng. Món này có mùi thơm hấp dẫn, bổ dưỡng, nhuận gan và giải độc.
Lưu ý xuất xứ
Trong dân gian có câu “rau tập tàng thì ngon”. Gọi là tập tàng vì nó tập hợp nhiều loại rau khác nhau như ngót, tần ô, đay, mã đề, dền, lang, muống, cải, sam, bông bí, bông mướp, lá lốt... Nếu có một mớ rau phong phú chủng loại như thế mà luộc hay nấu canh cũng đều trở thành những món ăn cung cấp nhiều vitamin, muối khoáng, chất xơ, hoạt chất sinh học rất có ích cho sức khỏe.
Các loại rau dại mà dân gian chúng ta đã quen dùng, như đã nói, hầu hết đều tốt cho sức khỏe. Tuy vậy, khi sử dụng, chúng ta cần biết rõ xuất xứ để phòng trường hợp chúng mọc trên vùng đất, nguồn nước bị ô nhiễm hoặc môi trường không khí không an toàn cho sức khỏe. Trước khi sử dụng các loại rau mọc dưới nước như muống, nhút, dừa nước, bông súng, ngó sen… cần rửa thật kỹ dưới vòi nước chảy và nấu chín để phòng ngừa nhiễm giun sán.
Lương y ĐINH CÔNG BẢY (Tổng Thư ký Hội Dược liệu TPHCM)
http://www1.vietinfo.eu/suc-khoe/nhieu-rau-dai-quy-nhu-thuoc.html
16-04-2011 18:49
Nhiều rau dại quý như thuốc
Nhiều loại rau dại rất tốt cho sức khỏe nhưng khi sử dụng cần biết rõ xuất xứ để đề phòng trường hợp chúng mọc trên vùng đất, nguồn nước bị ô nhiễm sẽ không an toàn cho sức khỏe
Trong khi nhiều người lo ngại về tính an toàn của các loại rau trồng trên thị trường thì câu người xưa nói “người khôn ăn rau dại” rất đáng được lưu ý. Sở dĩ như vậy là vì các loại rau dại thường có những ưu thế mà rau trồng không có được, như do mọc hoang nên ít bị ảnh hưởng của phân bón hóa học cũng như các loại nông dược; thu hái xong thường được sử dụng liền nên không cần đến những biện pháp bảo quản; đa số từng được sử dụng làm thuốc vì có ích cho sức khỏe khi được sử dụng thích hợp; hương vị đặc trưng, lạ miệng nên rất hấp dẫn. Tất nhiên đấy phải là những loại rau dại mà kinh nghiệm ông cha ta đã quen dùng.
Những rau dại thường gặp
- Rau má: Dùng ăn sống hay nấu canh đều tốt. Nếu nấu cháo thì dùng rau má tươi 100 g, đậu xanh 50 g, gạo tẻ 50 g, nấu ăn nóng với ít muối hoặc đường. Những món này đều có vị ngọt, tính mát, tác dụng thanh nhiệt, giải độc, lợi tiểu, thường dùng trong các trường hợp sốt, chảy máu cam, nôn ra máu, lỵ, táo bón do nhiệt, đi tiểu buốt, mụn nhọt, rôm sảy, ho, dãn tĩnh mạch, chức năng giải độc của gan suy yếu, sản phụ ít sữa...
- Chùm bao: Còn gọi là lạc tiên. Dân quê thường hái ngọn và trái, lá non dùng làm món luộc, xào, nấu canh với cá rô đồng. Những món này có tác dụng an thần, giải độc, chống dị ứng.
- Càng cua: Còn gọi là rau tiêu, mọc nhiều ở nơi ẩm thấp. Rau càng cua rửa sạch, chấm với các món kho hoặc mắm; làm gỏi bằng cách trộn với tép bạc tươi, thịt ba chỉ luộc, đậu phộng rang giã dập và rau húng quế, làm món xà lách với thịt bò, dầu giấm, trứng luộc; với cá mòi đóng hộp và hành tây…, đều là những món giúp lợi tiểu, thanh nhiệt, giải khát. Tuy nhiên, lưu ý là loại rau này không thích hợp cho những người sỏi thận.
- Lá lốt: Dùng ăn sống hoặc làm gia vị nấu canh cá, chả cá, lươn, ếch, ba ba, ốc, hến… vừa tạo hương vị thơm ngon vừa khử bớt khí hàn, khí thấp của thực phẩm, giảm bớt mùi tanh, giúp tiêu thực và chống dị ứng. Lá lốt gói các loại thịt như bò, heo, vịt, cua, cá, lươn, ốc… để nướng, chiên; làm rau xào thịt bò, heo, cá, lòng gà… rất ngon miệng, bổ dưỡng.
Người tiêu dùng rất dễ tìm mua các loại rau nhưng chưa thật sự an tâm lắm khi sử dụng. Ảnh: XUÂN THẢO
- Dớn: Thường được dùng luộc chấm nước mắm ngon, xào, làm gỏi…, đều có tác dụng thanh nhiệt, lợi tiểu, chống táo bón. Lưu ý trước khi chế biến phải trụng sơ qua với nước sôi.
- Bồ công anh: Làm rau ăn tươi, hấp chín, nấu canh hoặc nấu cháo… giúp nhuận gan, mật, giải độc, lợi tiểu, tăng cường sức đề kháng, chống loãng xương.
- Mớp gai: Nông dân thường lấy củ làm thuốc, lấy cọng xào tỏi hoặc xào với thịt bò. Những món ăn này rất có ích cho hoạt động của gan.
- Nhút: Dùng nấu canh cua, tôm… rất tốt khi cần thanh nhiệt, an thần.
- Quả bần chua: Dùng nấu canh chua có tác dụng giải khát, giải độc.
- Lá cách: Làm rau luộc ăn hoặc nấu canh có tác dụng trợ tiêu hóa, tiêu thực, nhuận gan, mật. Rắn bông súng xào lăn với lá cách, ba ba xào lá cách hoặc gà giò xào lá cách đều là những món ăn rất hấp dẫn và bổ dưỡng.
- Đinh lăng: Lấy lá làm rau ăn như rau mùi hoặc làm gỏi, bổ dưỡng mà lại chống dị ứng, giải độc.
- Ngổ: Dùng làm rau ăn giúp thanh nhiệt, lợi tiểu.
- Dấp cá: Ăn như gia vị, giúp giải độc, thanh nhiệt, lợi tiểu, nhuận trường.
- Cải trời: Luộc, xào hay nấu canh ăn đều giúp tan đờm, bớt ho. Trong tô canh rau tập tàng của vùng đất phương Nam thường có loại rau này.
Vùng cao nguyên Trung du có món gỏi lá, gồm nhiều loại lá ăn chung với cá, thịt heo, tôm, như lá ngải cứu, mơ lông, sung, đinh lăng, xoài, ổi, cóc, lạc tiên, trai, bứa, vừng, kim cang… Món gỏi này có đủ các vị chua, cay, đắng, chát vừa ngon miệng mà lại rất tốt cho sức khỏe.
Rau đắng đất: Ăn sống hoặc ăn với cháo cá lóc, cá rô đồng. Món này có mùi thơm hấp dẫn, bổ dưỡng, nhuận gan và giải độc.
Lưu ý xuất xứ
Trong dân gian có câu “rau tập tàng thì ngon”. Gọi là tập tàng vì nó tập hợp nhiều loại rau khác nhau như ngót, tần ô, đay, mã đề, dền, lang, muống, cải, sam, bông bí, bông mướp, lá lốt... Nếu có một mớ rau phong phú chủng loại như thế mà luộc hay nấu canh cũng đều trở thành những món ăn cung cấp nhiều vitamin, muối khoáng, chất xơ, hoạt chất sinh học rất có ích cho sức khỏe.
Các loại rau dại mà dân gian chúng ta đã quen dùng, như đã nói, hầu hết đều tốt cho sức khỏe. Tuy vậy, khi sử dụng, chúng ta cần biết rõ xuất xứ để phòng trường hợp chúng mọc trên vùng đất, nguồn nước bị ô nhiễm hoặc môi trường không khí không an toàn cho sức khỏe. Trước khi sử dụng các loại rau mọc dưới nước như muống, nhút, dừa nước, bông súng, ngó sen… cần rửa thật kỹ dưới vòi nước chảy và nấu chín để phòng ngừa nhiễm giun sán.
Lương y ĐINH CÔNG BẢY (Tổng Thư ký Hội Dược liệu TPHCM)
http://www1.vietinfo.eu/suc-khoe/nhieu-rau-dai-quy-nhu-thuoc.html
Friday, April 15, 2011
4 loại rau giúp giảm cân “vô địch”
4 loại rau giúp giảm cân “vô địch”
Thứ năm - 04/14/2011 21:29
Text size
Planets
Share this story
Share on Facebook Share on Twitter Share on Google Share on Buzz
Story tools
Email print
Dù không tồn tại loại thực phẩm nào ăn vào sẽ khiến bạn “sụt” cân ngay nhưng để giảm cân bạn có thể thay đổi chế độ ăn uống với sự ưu ái cho 4 loại rau xanh dưới đây:
Đỗ que
2015932852_do_que_15411.jpg
Từ đỗ que, bạn có thể chế biến ra nhiều món ăn đơn giản, dễ làm và ngon miệng. Hơn thế, đây còn là loại rau “giữ dáng” rất tuyệt. Năng lượng do đỗ que mang lại rất ít (25 calo trong 100g). Quả đậu còn rất giàu vitamin C (9mg trong 100g). Ngoài ra, trong thành phần đỗ que còn có beta-caroten, vitamin A và muối khoáng.
Rau xà lách
Rau xà lách (rau diếp xoăn) rất thích hợp cho việc giảm cân. 100g rau chỉ chứa 11 calo và 0,4g gluxit. Dù chứa rất ít vitamin C nhưng rau xà lách lại cung cấp nhiều chất xơ (100g rau cung cấp tới 3g chất xơ). Thành phần rau còn chứa nhiều nước.
Với rau xà lách, bạn có thể ăn sống, ăn tái hoặc nấu chín.
Bí đao
Bí đao còn được gọi là bí xanh, bí phấn hay đông qua. Các món ăn nấu từ bí đao không những ngon, bổ dưỡng mà còn có tác dụng giảm béo an toàn và hiệu quả (100g bí chỉ có 10calo). Tuy nhiên, do dược tính của bí đao hoà hoãn nên khi sử dụng làm thuốc giảm béo cần ăn lâu ngày mới đạt được hiệu quả tốt. Mặt khác bí đao mát nên rất thích hợp dùng trong những ngày hè giúp thanh nhiệt, lưu thông khí huyết.
Có thể chế biến bí đao thành các món như canh bí, bí luộc, bí xào hoặc ép bí lấy nước uống.
Cà tím
280921299_042ca_tim_15411.jpg
Thành phần dinh dưỡng có trong 100g cà tím như sau: nước chiếm 92%, đạm 1,3%, chất béo 0,2%, đường 0,5%, cùng các chất khoáng như lân, magiê, kali, canxi, sắt… cùng các vitamin như caroten (tiền vitamin A), vitamin B1, vitamin B2, vitamin C, vitamin PP.... Vì thế, cà tím rất giàu dinh dưỡng mà lại mang tới ít calo (19 calo trong 100g cà).
Ngoài tác dụng khử chất béo rất tốt, cà tím còn có khả năng chống cholesterol ứ đọng, chống ung thư dạ dày…
http://clickvao.com/news/others/4-loai-rau-giup-giam-can-vo-dich-26237/
Thứ năm - 04/14/2011 21:29
Text size
Planets
Share this story
Share on Facebook Share on Twitter Share on Google Share on Buzz
Story tools
Email print
Dù không tồn tại loại thực phẩm nào ăn vào sẽ khiến bạn “sụt” cân ngay nhưng để giảm cân bạn có thể thay đổi chế độ ăn uống với sự ưu ái cho 4 loại rau xanh dưới đây:
Đỗ que
2015932852_do_que_15411.jpg
Từ đỗ que, bạn có thể chế biến ra nhiều món ăn đơn giản, dễ làm và ngon miệng. Hơn thế, đây còn là loại rau “giữ dáng” rất tuyệt. Năng lượng do đỗ que mang lại rất ít (25 calo trong 100g). Quả đậu còn rất giàu vitamin C (9mg trong 100g). Ngoài ra, trong thành phần đỗ que còn có beta-caroten, vitamin A và muối khoáng.
Rau xà lách
Rau xà lách (rau diếp xoăn) rất thích hợp cho việc giảm cân. 100g rau chỉ chứa 11 calo và 0,4g gluxit. Dù chứa rất ít vitamin C nhưng rau xà lách lại cung cấp nhiều chất xơ (100g rau cung cấp tới 3g chất xơ). Thành phần rau còn chứa nhiều nước.
Với rau xà lách, bạn có thể ăn sống, ăn tái hoặc nấu chín.
Bí đao
Bí đao còn được gọi là bí xanh, bí phấn hay đông qua. Các món ăn nấu từ bí đao không những ngon, bổ dưỡng mà còn có tác dụng giảm béo an toàn và hiệu quả (100g bí chỉ có 10calo). Tuy nhiên, do dược tính của bí đao hoà hoãn nên khi sử dụng làm thuốc giảm béo cần ăn lâu ngày mới đạt được hiệu quả tốt. Mặt khác bí đao mát nên rất thích hợp dùng trong những ngày hè giúp thanh nhiệt, lưu thông khí huyết.
Có thể chế biến bí đao thành các món như canh bí, bí luộc, bí xào hoặc ép bí lấy nước uống.
Cà tím
280921299_042ca_tim_15411.jpg
Thành phần dinh dưỡng có trong 100g cà tím như sau: nước chiếm 92%, đạm 1,3%, chất béo 0,2%, đường 0,5%, cùng các chất khoáng như lân, magiê, kali, canxi, sắt… cùng các vitamin như caroten (tiền vitamin A), vitamin B1, vitamin B2, vitamin C, vitamin PP.... Vì thế, cà tím rất giàu dinh dưỡng mà lại mang tới ít calo (19 calo trong 100g cà).
Ngoài tác dụng khử chất béo rất tốt, cà tím còn có khả năng chống cholesterol ứ đọng, chống ung thư dạ dày…
http://clickvao.com/news/others/4-loai-rau-giup-giam-can-vo-dich-26237/
Thursday, April 14, 2011
Dinh dưỡng tốt cho mắt
Dinh dưỡng tốt cho mắt
Thứ năm - 04/14/2011 09:03
Text size
Planets
Share this story
Share on Facebook Share on Twitter Share on Google Share on Buzz
Story tools
Email print
Một số chế độ ăn uống hợp lý có thể giúp bạn bảo vệ mắt tốt, theo báo The Times of India dẫn lời bác sĩ Keiki R Mehta, chuyên gia về mắt hàng đầu ở Ấn Độ.
Bổ sung vitamin A giúp ngừa chứng khô mắt, trì hoãn việc mắc bệnh đục nhân mắt, cũng như những thay đổi dẫn tới chứng thoái hóa điểm vàng. Bạn có thể bổ sung vitamin A từ hai nguồn thực phẩm: các chế phẩm từ động vật chứa vitamin A như gan, bơ; các loại rau củ màu vàng hoặc cam (đu đủ, cà rốt...) và rau củ chứa nhiều lá, đây là nguồn phong phú carotene, chất được cơ thể chuyển hóa thành vitamin A.
Lutein và zeaxanthin giúp bảo vệ võng mạc. Nguồn phong phú lutein và zeaxanthin là rau xanh nhiều lá như bông cải xanh. Bạn có thể tìm thấy hai chất này trong hoa quả, rau củ màu vàng, cam như cà rốt, bắp trái.
893204221_ca_rot.jpg
Cà rốt góp phần bảo vệ mắt - Ảnh: Shutterstock
Bổ sung vitamin C giúp trì hoãn quá trình phát bệnh đục nhân mắt. Nếu hút thuốc lá, uống nhiều rượu bia hoặc bị tiểu đường, bạn nên tăng lượng hấp thụ vitamin C do hàm lượng này sẽ có xu hướng thấp hơn mức trung bình. Cam, quýt, bưởi, ớt trái, khoai tây, rau nhiều lá là nguồn phong phú vitamin C.
Một số khoáng chất cũng rất cần thiết cho mắt. Chẳng hạn như selen giúp cơ thể hấp thụ
vitamin E và giúp cơ thể tự tạo chất chống ô-xy hóa. Hải sản như hàu chứa nhiều selen. Kẽm có tác dụng giúp cơ thể hấp thụ vitamin A và cũng là một phần enzyme cơ thể cần để giảm lượng phân tử gốc tự do. Kẽm giúp chống chứng thoái hóa điểm vàng. Các loại hạt như hạt điều, đậu phộng... chứa nhiều kẽm.
Nguồn bổ sung a-xít béo omega 3 tốt nhất là cá, vốn giàu EPA và DHA. Một nguồn khác giàu các loại a-xít béo omega 3 này là dầu thực vật.
Cách tốt nhất để bảo vệ mắt là có chế độ ăn uống khỏe mạnh và kiểm tra mắt định kỳ. Sau độ tuổi 40, bạn nên kiểm tra mắt định kỳ mỗi 6 tháng. Việc khám mắt thường xuyên có thể phát hiện sớm các chứng bệnh liên quan tới mắt, và nếu có giúp việc điều trị trở nên dễ dàng hơn.
http://clickvao.com/news/others/Dinh-duong-tot-cho-mat-26188/
Thứ năm - 04/14/2011 09:03
Text size
Planets
Share this story
Share on Facebook Share on Twitter Share on Google Share on Buzz
Story tools
Email print
Một số chế độ ăn uống hợp lý có thể giúp bạn bảo vệ mắt tốt, theo báo The Times of India dẫn lời bác sĩ Keiki R Mehta, chuyên gia về mắt hàng đầu ở Ấn Độ.
Bổ sung vitamin A giúp ngừa chứng khô mắt, trì hoãn việc mắc bệnh đục nhân mắt, cũng như những thay đổi dẫn tới chứng thoái hóa điểm vàng. Bạn có thể bổ sung vitamin A từ hai nguồn thực phẩm: các chế phẩm từ động vật chứa vitamin A như gan, bơ; các loại rau củ màu vàng hoặc cam (đu đủ, cà rốt...) và rau củ chứa nhiều lá, đây là nguồn phong phú carotene, chất được cơ thể chuyển hóa thành vitamin A.
Lutein và zeaxanthin giúp bảo vệ võng mạc. Nguồn phong phú lutein và zeaxanthin là rau xanh nhiều lá như bông cải xanh. Bạn có thể tìm thấy hai chất này trong hoa quả, rau củ màu vàng, cam như cà rốt, bắp trái.
893204221_ca_rot.jpg
Cà rốt góp phần bảo vệ mắt - Ảnh: Shutterstock
Bổ sung vitamin C giúp trì hoãn quá trình phát bệnh đục nhân mắt. Nếu hút thuốc lá, uống nhiều rượu bia hoặc bị tiểu đường, bạn nên tăng lượng hấp thụ vitamin C do hàm lượng này sẽ có xu hướng thấp hơn mức trung bình. Cam, quýt, bưởi, ớt trái, khoai tây, rau nhiều lá là nguồn phong phú vitamin C.
Một số khoáng chất cũng rất cần thiết cho mắt. Chẳng hạn như selen giúp cơ thể hấp thụ
vitamin E và giúp cơ thể tự tạo chất chống ô-xy hóa. Hải sản như hàu chứa nhiều selen. Kẽm có tác dụng giúp cơ thể hấp thụ vitamin A và cũng là một phần enzyme cơ thể cần để giảm lượng phân tử gốc tự do. Kẽm giúp chống chứng thoái hóa điểm vàng. Các loại hạt như hạt điều, đậu phộng... chứa nhiều kẽm.
Nguồn bổ sung a-xít béo omega 3 tốt nhất là cá, vốn giàu EPA và DHA. Một nguồn khác giàu các loại a-xít béo omega 3 này là dầu thực vật.
Cách tốt nhất để bảo vệ mắt là có chế độ ăn uống khỏe mạnh và kiểm tra mắt định kỳ. Sau độ tuổi 40, bạn nên kiểm tra mắt định kỳ mỗi 6 tháng. Việc khám mắt thường xuyên có thể phát hiện sớm các chứng bệnh liên quan tới mắt, và nếu có giúp việc điều trị trở nên dễ dàng hơn.
http://clickvao.com/news/others/Dinh-duong-tot-cho-mat-26188/
Tuesday, April 12, 2011
6 chiêu cho người thức đêm
6 chiêu cho người thức đêm
Thứ hai - 04/11/2011 01:03
Text size
Planets
Share this story
Share on Facebook Share on Twitter Share on Google Share on Buzz
Story tools
Email print
Đối với những người thỉnh thoảng phải thức đêm làm việc, thực hiện những nguyên tắc dưới đây để có thể minh mẫn ban đêm, tỉnh táo ban ngày.
1821321128_thuc_dem_10411.jpg
Nên
1. Bổ sung canxi: Các chuyên gia cho biết, 2h đêm là thời điểm cơ thể mất đi lượng canxi ở mức cao nhất, đặc biệt khi não hoạt động nhiều. Vì vậy, nên bổ sung 1.000-1.500mg canxi trước khi định thức qua đêm.
Lưu ý là sắt sẽ làm giảm sự hấp thụ của canxi vì thế bữa tối không nên ăn rau chân vịt, táo đỏ trứng, rong biển và các loại thực phẩm có hàm lượng sắt cao.
2. Bổ sung vitamin B: Vitamin B liên quan đến sự trao đổi chất, là nguồn cung cấp năng lượng chính, giúp tế bào não hoạt động và tăng cường trí nhớ.
Cơ thể hấp thụ vitamin B cần 4-5h vì vậy, nếu bạn có kế hoạch thức thâu đêm, hãy uống 1-2 viên vitamin B trước 9 giờ tối.
3. Đắp mặt nạ: Giấc ngủ không qui luật khiến làn da mất đi độ ẩm đặc biệt là ở người sử dụng máy vi tính. Dù tinh thần bạn đang rất minh mẫn nhưng làn da thì đang trong tình trạng nửa ngủ nửa thức, các bức xạ điện tử sẽ làm tổn hạn đến tế bào da nếu bạn không có biện pháp bảo vệ chúng.
Các chuyên gian New Zealand đưa ra lời khuyên nên đắp mặt nạ vào buổi tối giúp bạn bảo vệ làn da hiệu quả tước bức xạ điện từ!
Có nên ngủ bù vào cuối tuần?
Các chuyên gia nghiên cứu giấc ngủ của Hoa Kỳ cho biết, thức khuya làm việc ngoài giờ và lựa chọn hình thức ngủ bù là không hề khoa học bởi làm việc thêm giờ và nghỉ ngơi quá độ sẽ làm rối loạn hệ thống nội tiết, nguy cơ suy nhược thần kinh có thể tăng lên gấp nhiều lần.
Không nên
1. Uống cà phê: Hãy vứt bỏ tách cà phê giúp bạn minh mẫn cả đêm dài! Caffeine sẽ làm tê liệt hệ thần kinh dẫn đến rối loạn nội tiết và khiến cuộc sống vốn thiếu quy luật của bạn ngày tồi tệ hơn.
Một nghiên cứu ở đại học Oxford cho thấy, nếu bạn uống một tách cà phên đen nguyên chất sau 12h đêm thì huyết áp sẽ liên tăng trong 12 giờ tiếp theo và nguy cơ mắc bệnh tim mạch cũng theo đó tăng lên nhiều lần.
2. Tắm nước lạnh: Làn nước mát lạnh giúp tinh thần sảng khoái hơn nhưng các chuyên gia y tế Anh cho hay, vào ban đêm máu của cơ thể đặc hơn, nước lạnh sẽ kích thích sự so lại của mao mạch khiến tim đập nhanh hơn và thần kinh căng thẳng hơn. Theo Đông y thì tắm nước lạnh vào ban đêm khiến cơ thể tích lũy nhiệt một cách vô thức và bạn cũng dễ "nổi giận" hơn!
3. Bật điều hòa: Nếu phải thức khuya làm việc tại văn phòng thì cần hết sức chú ý. Máy lạnh tại cơ quan được hoạt động hết công suất từ sáng đến tối mà khả năng phục hồi của cơ thể lại tương đối thấp vào ban đêm, vì vậy dù bạn mở điều hòa ở chế độ làm lạnh hay sưởi ấm thì cũng rất dễ bị cảm lạnh.
http://clickvao.com/news/others/6-chieu-cho-nguoi-thuc-dem-26015/
Thứ hai - 04/11/2011 01:03
Text size
Planets
Share this story
Share on Facebook Share on Twitter Share on Google Share on Buzz
Story tools
Email print
Đối với những người thỉnh thoảng phải thức đêm làm việc, thực hiện những nguyên tắc dưới đây để có thể minh mẫn ban đêm, tỉnh táo ban ngày.
1821321128_thuc_dem_10411.jpg
Nên
1. Bổ sung canxi: Các chuyên gia cho biết, 2h đêm là thời điểm cơ thể mất đi lượng canxi ở mức cao nhất, đặc biệt khi não hoạt động nhiều. Vì vậy, nên bổ sung 1.000-1.500mg canxi trước khi định thức qua đêm.
Lưu ý là sắt sẽ làm giảm sự hấp thụ của canxi vì thế bữa tối không nên ăn rau chân vịt, táo đỏ trứng, rong biển và các loại thực phẩm có hàm lượng sắt cao.
2. Bổ sung vitamin B: Vitamin B liên quan đến sự trao đổi chất, là nguồn cung cấp năng lượng chính, giúp tế bào não hoạt động và tăng cường trí nhớ.
Cơ thể hấp thụ vitamin B cần 4-5h vì vậy, nếu bạn có kế hoạch thức thâu đêm, hãy uống 1-2 viên vitamin B trước 9 giờ tối.
3. Đắp mặt nạ: Giấc ngủ không qui luật khiến làn da mất đi độ ẩm đặc biệt là ở người sử dụng máy vi tính. Dù tinh thần bạn đang rất minh mẫn nhưng làn da thì đang trong tình trạng nửa ngủ nửa thức, các bức xạ điện tử sẽ làm tổn hạn đến tế bào da nếu bạn không có biện pháp bảo vệ chúng.
Các chuyên gian New Zealand đưa ra lời khuyên nên đắp mặt nạ vào buổi tối giúp bạn bảo vệ làn da hiệu quả tước bức xạ điện từ!
Có nên ngủ bù vào cuối tuần?
Các chuyên gia nghiên cứu giấc ngủ của Hoa Kỳ cho biết, thức khuya làm việc ngoài giờ và lựa chọn hình thức ngủ bù là không hề khoa học bởi làm việc thêm giờ và nghỉ ngơi quá độ sẽ làm rối loạn hệ thống nội tiết, nguy cơ suy nhược thần kinh có thể tăng lên gấp nhiều lần.
Không nên
1. Uống cà phê: Hãy vứt bỏ tách cà phê giúp bạn minh mẫn cả đêm dài! Caffeine sẽ làm tê liệt hệ thần kinh dẫn đến rối loạn nội tiết và khiến cuộc sống vốn thiếu quy luật của bạn ngày tồi tệ hơn.
Một nghiên cứu ở đại học Oxford cho thấy, nếu bạn uống một tách cà phên đen nguyên chất sau 12h đêm thì huyết áp sẽ liên tăng trong 12 giờ tiếp theo và nguy cơ mắc bệnh tim mạch cũng theo đó tăng lên nhiều lần.
2. Tắm nước lạnh: Làn nước mát lạnh giúp tinh thần sảng khoái hơn nhưng các chuyên gia y tế Anh cho hay, vào ban đêm máu của cơ thể đặc hơn, nước lạnh sẽ kích thích sự so lại của mao mạch khiến tim đập nhanh hơn và thần kinh căng thẳng hơn. Theo Đông y thì tắm nước lạnh vào ban đêm khiến cơ thể tích lũy nhiệt một cách vô thức và bạn cũng dễ "nổi giận" hơn!
3. Bật điều hòa: Nếu phải thức khuya làm việc tại văn phòng thì cần hết sức chú ý. Máy lạnh tại cơ quan được hoạt động hết công suất từ sáng đến tối mà khả năng phục hồi của cơ thể lại tương đối thấp vào ban đêm, vì vậy dù bạn mở điều hòa ở chế độ làm lạnh hay sưởi ấm thì cũng rất dễ bị cảm lạnh.
http://clickvao.com/news/others/6-chieu-cho-nguoi-thuc-dem-26015/
Monday, April 4, 2011
5 loại thực phẩm sau đây sẽ giúp bạn khắc phục triệu chứng “ăn no không tiêu”.
5 loại thực phẩm sau đây sẽ giúp bạn khắc phục triệu chứng “ăn no không tiêu”.
211161216_82eca_chua_4411.jpg
1. Cà chua
1-2 quả cà chua cho vào món ăn hay làm nước cà chua mỗi ngày có thể phòng chống ung thư và các bệnh tim mạch, giảm nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt. Đó là nhờ chất lycopene có trong cà chua.
Nước cà chua không cho muối rất có ích cho những người mắc bệnh tim mạch và cao huyết áp.
2. Quả có vỏ cứng
Những loại quả có vỏ cứng, có hạt ở trong (ví dụ như lạc, óc chó, hạnh nhân…) là những loại quả có thể giảm cholestrerol trong máu, là một đơn thuốc tốt nhất để phòng chống bệnh tim.
Quả, hạt có vỏ cứng là bộ phận tinh hoa của thực vật có dinh dưỡng phong phú, hàm chứa protein, khoáng chất, vitamin, chất béo, có tác dụng rất tốt phòng chống bệnh tật, tăng cường thể lực đối với sự phát triển của cơ thể.
Lưu ý chỉ ăn khoảng 30g/ngày vì nếu không cơ thể dễ phát phì. Nếu ăn nhiều thì cần phải giảm bớt lượng thức ăn và dầu mỡ trong các bữa ăn khác.
3. Trà
Uống trà sẽ giúp giảm nguy cơ ung thư gan và ung thư thực quản. Bởi các chất xúc tác trong hệ tiêu hóa phần nhiều là mang tính axit. Phenol trong trà sẽ thúc đẩy bài tiết dịch tiêu hóa vừa làm cho dịch tiêu hóa phát huy được tác dụng tốt hơn.
Chuyên gia dinh dưỡng kiến nghị, thường xuyên chế biến món ăn từ trà sẽ có tác dụng trợ giúp tiêu hóa:
- Nấu cơm trà: Nước trà nấu cơm không được quá đặc, nếu cơm cho 3 người ăn thì dùng 3g trà ngâm vào trong nước 10 phút, sau đó lọc lấy nước cho vào nôi cơm nấu chín là được.
- Trà sữa: Lấy sữa bò đun sôi cho thêm đường, theo quy luật 1 thía sữa 2 thìa nước trà, lấy ra uống trực tiếp có thể khỏe tỳ, khai vị, có tác dụng chữa trị tiêu hóa không tốt.
- Cháo trà: Lấy 6g lá trà, 100g gạo, đầu tiên ngâm trà vào trong nước sôi khoảng 6 phút, lọc bã trà ra, cho gạo vào nước trà nấu cháo, mỗi ngày ăn 1 lần.
4. Tỏi
Các nhà khoa học Nhật phát hiện ra rằng những người hàng ngày ăn tỏi hoặc uống thuốc bổ sung chất tỏi thì càng ít mắc bệnh ung thư đường ruột. Đối với những người đang mắc bệnh ung thư đường ruột thời kỳ đầu, ăn tỏi còn có thể giúp cho họ cải thiện và hồi phục nhanh với tỉ lệ lành bệnh cao hơn những người không ăn là 53%.
Hiện tại, tỏi đã trở thành một loại thực phẩm hỗ trợ điều trị bệnh ung thư đường ruột. Những người hay phải ngồi lâu một chỗ không vận động như “dân văn phòng” thì nên ăn càng nhiều tỏi càng tốt.
5. Yến mạch
Mỗi ngày ăn yến mạch có thể giảm thấp cholestrerol. Yến mạch hàm chứa phong phú chất xơ làm cho chúng ta nhanh no, giảm ăn các thực phẩm dầu mỡ, kết quả là đạt được mục đích duy trì thể trọng cơ thể.
Ăn 35g yến mạch có thể cung cấp dinh dưỡng sự hoạt bát, năng động trong suốt ngày.
Ngoài tác dụng dinh dưỡng, yến mạch còn là một thực phẩm làm đẹp rất hiệu quả. Cách làm như sau:
Lấy nửa ly yến mạch, 1/4 ly sữa, 2 thìa mật ong, nửa thìa bột ngọc trai trộn lẫn vào nhau tạo thành dạng hồ, sau đó cho những nguyên liệu này vào một cái túi vải nhỏ, ngâm vào trong bồn tắm, yến mạch và những loại chất tinh hoa dinh dưỡng sẽ tan vào trong nước, vừa có tác dụng tẩy trừ chất bẩn, cặn bã ở trong da, vừa có tác dụng giữ nước cho da. Những nguyên liệu trên cũng có thể làm thành mặt nạ đắp vào vùng mặt, vùng cổ, có hiệu quả làm trắng da, trơn da.
Thường xuyên ăn thực phẩm từ yến mạch, tăng cường dung nạp chất xơ có tác dụng dưỡng dung nhan, bài trừ độc tố, nhuận tràng thông tiện….
http://clickvao.com/news/others/Nhung-thuc-pham-tro-giup-tieu-hoa-25596/
211161216_82eca_chua_4411.jpg
1. Cà chua
1-2 quả cà chua cho vào món ăn hay làm nước cà chua mỗi ngày có thể phòng chống ung thư và các bệnh tim mạch, giảm nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt. Đó là nhờ chất lycopene có trong cà chua.
Nước cà chua không cho muối rất có ích cho những người mắc bệnh tim mạch và cao huyết áp.
2. Quả có vỏ cứng
Những loại quả có vỏ cứng, có hạt ở trong (ví dụ như lạc, óc chó, hạnh nhân…) là những loại quả có thể giảm cholestrerol trong máu, là một đơn thuốc tốt nhất để phòng chống bệnh tim.
Quả, hạt có vỏ cứng là bộ phận tinh hoa của thực vật có dinh dưỡng phong phú, hàm chứa protein, khoáng chất, vitamin, chất béo, có tác dụng rất tốt phòng chống bệnh tật, tăng cường thể lực đối với sự phát triển của cơ thể.
Lưu ý chỉ ăn khoảng 30g/ngày vì nếu không cơ thể dễ phát phì. Nếu ăn nhiều thì cần phải giảm bớt lượng thức ăn và dầu mỡ trong các bữa ăn khác.
3. Trà
Uống trà sẽ giúp giảm nguy cơ ung thư gan và ung thư thực quản. Bởi các chất xúc tác trong hệ tiêu hóa phần nhiều là mang tính axit. Phenol trong trà sẽ thúc đẩy bài tiết dịch tiêu hóa vừa làm cho dịch tiêu hóa phát huy được tác dụng tốt hơn.
Chuyên gia dinh dưỡng kiến nghị, thường xuyên chế biến món ăn từ trà sẽ có tác dụng trợ giúp tiêu hóa:
- Nấu cơm trà: Nước trà nấu cơm không được quá đặc, nếu cơm cho 3 người ăn thì dùng 3g trà ngâm vào trong nước 10 phút, sau đó lọc lấy nước cho vào nôi cơm nấu chín là được.
- Trà sữa: Lấy sữa bò đun sôi cho thêm đường, theo quy luật 1 thía sữa 2 thìa nước trà, lấy ra uống trực tiếp có thể khỏe tỳ, khai vị, có tác dụng chữa trị tiêu hóa không tốt.
- Cháo trà: Lấy 6g lá trà, 100g gạo, đầu tiên ngâm trà vào trong nước sôi khoảng 6 phút, lọc bã trà ra, cho gạo vào nước trà nấu cháo, mỗi ngày ăn 1 lần.
4. Tỏi
Các nhà khoa học Nhật phát hiện ra rằng những người hàng ngày ăn tỏi hoặc uống thuốc bổ sung chất tỏi thì càng ít mắc bệnh ung thư đường ruột. Đối với những người đang mắc bệnh ung thư đường ruột thời kỳ đầu, ăn tỏi còn có thể giúp cho họ cải thiện và hồi phục nhanh với tỉ lệ lành bệnh cao hơn những người không ăn là 53%.
Hiện tại, tỏi đã trở thành một loại thực phẩm hỗ trợ điều trị bệnh ung thư đường ruột. Những người hay phải ngồi lâu một chỗ không vận động như “dân văn phòng” thì nên ăn càng nhiều tỏi càng tốt.
5. Yến mạch
Mỗi ngày ăn yến mạch có thể giảm thấp cholestrerol. Yến mạch hàm chứa phong phú chất xơ làm cho chúng ta nhanh no, giảm ăn các thực phẩm dầu mỡ, kết quả là đạt được mục đích duy trì thể trọng cơ thể.
Ăn 35g yến mạch có thể cung cấp dinh dưỡng sự hoạt bát, năng động trong suốt ngày.
Ngoài tác dụng dinh dưỡng, yến mạch còn là một thực phẩm làm đẹp rất hiệu quả. Cách làm như sau:
Lấy nửa ly yến mạch, 1/4 ly sữa, 2 thìa mật ong, nửa thìa bột ngọc trai trộn lẫn vào nhau tạo thành dạng hồ, sau đó cho những nguyên liệu này vào một cái túi vải nhỏ, ngâm vào trong bồn tắm, yến mạch và những loại chất tinh hoa dinh dưỡng sẽ tan vào trong nước, vừa có tác dụng tẩy trừ chất bẩn, cặn bã ở trong da, vừa có tác dụng giữ nước cho da. Những nguyên liệu trên cũng có thể làm thành mặt nạ đắp vào vùng mặt, vùng cổ, có hiệu quả làm trắng da, trơn da.
Thường xuyên ăn thực phẩm từ yến mạch, tăng cường dung nạp chất xơ có tác dụng dưỡng dung nhan, bài trừ độc tố, nhuận tràng thông tiện….
http://clickvao.com/news/others/Nhung-thuc-pham-tro-giup-tieu-hoa-25596/
Subscribe to:
Posts (Atom)