Tiến sỹ THÍCH THIỆN MỸ

Tiến sỹ THÍCH THIỆN MỸ 560/TA- Ấp Tân An-Xã Tân Thành Huyện Lai Vung – Đồng Tháp DD: 0939.826271, 0975.865463 Email : thienmy.thich@gmail.com

Sunday, July 29, 2007

Đã có vắc-xin uống ngừa bệnh viêm dạ dày - ruột ở trẻ em

Đã có vắc-xin uống ngừa bệnh viêm dạ dày - ruột ở trẻ em
23:23:46, 29/07/2007
Thanh Tùng

Hôm qua 29.7, tại TP.HCM, đại diện bộ môn Nhi của hai trường Đại học Y Hà Nội và Đại học Y Dược TP.HCM đã phối hợp cùng Chương trình Tiêm chủng mở rộng quốc gia và Công ty GlaxoSmithKline (Anh)... họp báo công bố sự kiện lần đầu tiên VN đưa vào sử dụng loại vắc-xin uống (có tên là Rotarix) phòng ngừa mắc bệnh viêm dạ dày - ruột ở trẻ em do vi-rút Rota.

Theo PGS.TS Nguyễn Gia Khánh - Chủ nhiệm bộ môn Nhi (ĐH Y Hà Nội), viêm dạ dày - ruột do vi-rút Rota, mà biểu hiện chính là tiêu chảy, nôn mửa là bệnh gặp rất thường xuyên ở trẻ em dưới 5 tuổi (nhiều nhất là từ 0 đến 2 tuổi). Thống kê tại các bệnh viện nhi lớn ở TP.HCM và Hà Nội cho thấy, có đến 55%-60% trường hợp trẻ bị tiêu chảy nhập viện là do vi-rút Rota. Thống kê trên toàn thế giới, mỗi năm có 125 triệu lượt trẻ bị viêm dạ dày - ruột do vi-rút Rota, trong đó có từ 440 đến 610 ngàn trẻ tử vong.

Thanh Tùng
http://www4.thanhnien.com.vn/Suckhoe/2007/7/30/202934.tno

Saturday, July 28, 2007

Phương pháp nhân giống xoài bằng hạt

Phương pháp nhân giống xoài bằng hạt - 24/7/2007 8h:9

Có rất nhiều cây xoài mọc từ hạt mà không hề thoái hoá mà chất lượng trái xoài vẫn được đảm bảo. Nhiều giống xoài của ta trong hạt có nhiều phôi - gọi là giống đa phôi.

Các phôi đều mọc thành cây. Hầu hết các phôi đó đều là phôi vô tính do các tế bào phôi tâm hình thành. Các cây hình thành từ phôi vô tính đều giữ được đặc tính của cây mẹ, cũng như các cây chiết, ghép hay cây giâm hom. Duy nhất chỉ có một cây phát triển từ phôi hữu tính do quá trình thụ phấn, thụ tinh hình thành. Cây này dễ nhận biết vì nó thường là cây xấu, còi cọc nhất, để loại bỏ.

(Ảnh: Toptropicals.com)Cách nhân giống xoài bằng các cây mọc từ phôi vô tính vẫn được nhiều nước trồng nhiều xoài ưa dùng. Vì nó không những không bị mất đi các đặt tính tốt của cây mẹ, mà còn bảo đảm tính đồng đều của các cây con và đặt biệt là cây sống rất lâu. Ở Bang Punjab (Ấn Độ) có cây xoài sống tới cả nghìn năm, chu vi thân của nó dài gần 13 m, độ che phủ của tán cây chiếm tới 3.000m2.

Xoài có thể ghép lên các cây cùng họ như cóc (còn gọi là sấu tây), cây điều (còn gọi đào lộn hột – Anacardium xcidenta L). Cho quả to, hạt nhỏ, thịt quả ngon, nhưng cây nhỏ bé, tuổi thọ kém. Ở nhiều nước, kể cả ở ta, người ta vẫn dùng muỗm, quéo hay cây quéo rừng còn gọi mắc chai làm cây gốc ghép. Hiện tượng vết ghép không tiếp hợp cũng có thể xảy ra ở một vài nơi. Người ta cho đó là do ảnh hưởng của thời tiết hay đất đai.

Cẩn thận bạn có thể làm thử trước khi ghép đại trà. Tốt hơn hết là dùng hạt của chính các giống xoài để gieo lấy cây gốc ghép. Chọn giống sinh trưởng khoẻ và đã được trồng nhiều năm ở ngay địa phương mình thì khỏi áy náy gì cả.

Việc ghép xoài cho kết quả tốt, tỷ lệ sống cao, tuỳ thuộc vào tay nghề hay sự quen làm của từng người với từng cách. Theo chúng tôi, cách ghép đơn giản nhất là ghép nêm trên cây gốc ghép non. Làm cách này, đầu tiên cũng lấy hạt còn rất mới từ các quả xoài tốt, đem rửa sạch, rồi gieo ngay. Khi cây con mọc, đem các cây con ra trồng lên luống đã làm đất kỹ, bón phân ải với mật độ 35 – 40 cm hoặc trồng vào chậu hay túi bầu có đúc đất tốt trộn phân, rồi chăm cho cây phát triển bình thường. Khi cây cao 40-50 cm lá đã chuyển từ tía sang xanh, thân cây to độ 0,5 cm thì ghép được.

Hom ghép lấy từ các cành có đường kính tương đương với cây gốc ghép có tuổi trên dưới 1 năm, mọc ở đầu cành, hom cần dài 10-12 cm, hái bỏ hết lá, bỏ chúng vào các bọc vải sạch thấm ướt hay cắm ngập chân hom trong lọ nước. Lấy vừa đủ làm trong 1-2 giờ cho hom khỏi khô. Khi ghép thì vát 2 bên chân hom với độ dày khoảng 1 cm. Ở cây gốc ghép, cũng cắt bỏ ngọn ở phía trên vị trí của lá thật đầu tiên, sau đó chẻ dọc ở giữa thêm xuống khoảng 1 cm. Nêm hom ghép vào gốc ghép, cuốn băng nilon chặt kín. Sau đó, dùng túi nilon kín một đầu trùm kín hom và vết ghép, làm giàn che nắng mưa. Khi hom ghép nhú chồi thì tháo túi nilon cho chồi phát triển. Chồi lên thành cây cao 75-80cm. Lá chuyển sang màu xanh thì đem trồng được.

Mùa ghép và trồng xoài nên tránh lúc quá nắng nóng hay rét, nhiều mưa.
http://www.khoahoc.com.vn/view.asp?Cat_ID=4&Cat_Sub_ID=13&news_id=16404

Friday, July 27, 2007

Rửa tay: Biện pháp đơn giản nhưng phòng bệnh hiệu quả



Rửa tay: Biện pháp đơn giản nhưng phòng bệnh hiệu quả - 26/7/2007 13h:55

Mỗi bàn tay người mang tới hơn 4 triệu mầm bệnh. Chỉ một động tác rửa tay sạch đã làm giảm tới 35% khả năng lây truyền vi khuẩn gây bệnh tiêu chảy làm tử vong hàng triệu người mỗi năm trên thế giới.

Ngày 25/7, Cục Y tế dự phòng Việt Nam cho biết, thời điểm 3 tháng hè này, số người mắc bệnh phải nhập viện không ngừng tăng, một phần trong số đó nhiễm bệnh từ thức ăn đường phố không vệ sinh, thói quen sử dụng thực phẩm không an toàn, chưa được nấu chín và thậm chí là từ việc không rửa tay bằng xà phòng trước khi ăn, uống…

Những hành vi này càng làm tăng nguy cơ mắc các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm đến tính mạng con người như tả, thương hàn, SARS, cúm A (H5N1)...

Theo Tổ chức Y tế thế giới, rửa tay được coi là liều vacxin tự chế, có tính khả thi và hiệu quả về chi phí cũng như có thể cứu sống hàng triệu người.

Từ đó, Cục Y tế dự phòng nhận định, các bệnh truyền nhiễm đã và đang diễn ra trong cộng đồng hoàn toàn có thể phòng ngừa được bằng cách giữ gìn vệ sinh, trong đó có rửa tay bằng xà phòng. Đây là giải pháp đã được các nhà khoa học chứng minh là có hiệu quả nhất, chi phí thấp và dễ thực hiện.

Chỉ cần rửa tay đã có thể giúp ngăn ngừa lây lan bệnh tật
(Ảnh: Library.nhs.uk)
Theo đó, chỉ một động tác rửa tay sạch đã làm giảm tới 35% khả năng lây truyền vi khuẩn gây bệnh tiêu chảy làm tử vong hàng triệu người mỗi năm trên thế giới. Việc rửa tay cũng có thể làm giảm rủi ro nhiễm khuẩn tiêu chảy tới 47%, nhiễm khuẩn đường hô hấp tới 19-45%.

Các nghiên cứu cho thấy, bàn tay của một người có thể mang tới 4,6 triệu mầm bệnh. Theo đó, vi khuẩn cư trú trên bàn tay (tập trung số lượng lớn ở kẽ tay và kẽ móng tay), đặc biệt, tụ cầu khuẩn thường xuyên có trên bề mặt da và trong niêm mạc mũi của người khỏe mạnh, loại vi khuẩn rất nguy hiểm này truyền nhiễm sang người khác qua tiếp xúc thông thường.

Nhiều người chỉ nhận thức vi khuẩn là các vết bẩn nhìn thấy bằng mắt thường. Trên thực tế, vi khuẩn luôn tồn tại trong không khí, trên các đồ vật, quần áo và đặc biệt có rất nhiều trên da bàn tay mà bằng mắt thường không thể nào nhìn thấy.

Các nhà khoa học chứng minh, trên 1cm2 da của người bình thường chứa tới 40.000 vi khuẩn, trên da bàn tay thì số lượng vi khuẩn còn nhiều hơn, vì đôi tay thường xuyên tiếp xúc với đủ mọi vật trong cuộc sống.

Những hành vi quen thuộc của nhiều người như đưa tay dụi mắt, miệng, cầm nắm đồ vật bẩn nhưng không rửa tay sạch... vô tình làm “cầu nối” giúp những vị khách không mời dễ dàng vào cơ thể, gây nhiều bệnh nguy hiểm. Các bệnh hay gặp như đau mắt, tiêu chảy, nhiễm trùng hô hấp cấp…thường mắc phải cũng chính là do thực hiện vệ sinh kém.
http://www.khoahoc.com.vn/view.asp?Cat_ID=6&Cat_Sub_ID=5&news_id=16461

Monday, July 23, 2007

Vitamin C tốt như thế nào?



Vitamin C tốt như thế nào? - 20/7/2007 8h:15

Nếu bạn không chạy marathon, có thể bạn sẽ không được nhận được nhiều sự bảo vệ chống lại các bệnh cảm cúm thông thường từ liều dùng bổ sung vitamin C hàng ngày, theo một bản đánh giá gần đây nhất của 30 nghiên cứu.

Được thực hiện qua một vài thập kỷ và với hơn 11.000 tham gia, những người hàng ngày đều dùng ít nhất 200 milligram vitamin, bản đánh giá còn cho thấy, vitamin C không giảm được nhiều thời gian và mức độ của bệnh cảm cúm, theo các nhà nghiên cứu tại Trường Đại Học Quốc Gia Úc và Trường Đại Học Helsinki.

Tuy nhiên, họ phát hiện ra: những người thực hiện hoạt động đòi hỏi sức lực cao - như vận động viên marathon, vận động viên trượt tuyết và quân lính – thì có thể giảm 50% nguy cơ bị cảm nếu hàng ngày họ dùng vitamin C.

Trong khi đó, các tác giả cho rằng, đối với hầu hết mọi người, ích lợi của phương pháp chữa trị phổ biến này thì có tác dụng quá ít ỏi đến nỗi không đáng so với chi phí và nỗ lực bỏ ra. “Thật là không hợp lý chút nào khi dùng vitamin C 365 ngày một năm để giảm nguy cơ bị cảm lạnh,” giáo sư Harri Hemilä thuộc Trường Đại Học Helsinki (Phần Lan) nói.

Một ly nước cam có khoảng 97 milligram vitamin C

Một ly nước cam có khoảng 97 milligram vitamin C (Ảnh: Johnpratt)
Bản kết luận này được đăng trong ấn bản mới nhất của tạp chí The Cochrane Library, tạp chí của tổ chức Cochrane Collaboration, một tổ chức quốc tế chuyên đánh giá các nghiên cứu y khoa. Các đánh giá có hệ thống sẽ rút ra kết luận dựa trên bằng chứng thực tế trong điều trị y khoa sau khi xem xét cả nội dung lẫn chất lượng của các cuộc thử nghiệm y khoa đang tranh cãi.

Kể từ khi vitamin được phát hiện vào thập niên 30, đã có nhiều cuộc bàn cãi về hiệu quả của nó trong việc chữa trị các bệnh thông thường từ nhiễm trùng phổi cho đến các bệnh cảm lạnh. Vào những năm 70, nhà hóa học đoạt giải Nobel là Linus Pauling đã phổ biến việc sử dụng thường xuyên Vitamin C. Cuốn sách của ông có tên “Vitamin C và Bệnh cảm lạnh thông thường,” khuyến khích mọi người dùng 1.000 milligram vitamin C hàng ngày.

Hiện giờ, liều Vitamin được khuyên dùng hàng ngày là 60 milligram. Một ly nước cam có khoảng 97 milligram vitamin C.

Mặc dù có nhiều kết quả khác nhau vào ban đầu và sau đó là bằng chứng bác bỏ tính hiệu quả của vitamin C, nhưng nhà hóa học uy tín Pauling vẫn trở thành nhà vô địch vitamin C của thế giới. “Pauling chẳng bao giờ rút lại ý kiến của mình cả,” giáo sư danh dự y học Wallace Sampson, tại Trường Đại Học Stanford nói.

Mặc dù có bằng chứng chống lại, nhưng vitamin C vẫn phổ biến bởi vì nhiều người muốn tin rằng nó hiệu nghiệm, giáo sư Wallace Sampson, người tranh cãi với nhà hóa học Paulung trên radio và qua thư từ, cho biết.

Ngày nay, ít có sự quan tâm đến việc nghiên cứu vitamin C và bệnh cảm thông thường, ông Hemilä - người đã nghiên cứu vitamin này trong suốt hơn 25 năm, cho biết. Bản đánh giá Cochrane được công bố lần đâu tiên vào năm 1998 và cập nhật vào năm 2004 và năm nay. Bản cập nhật gần đây nhất bao gồm một nghiên cứu duy nhất tập trung vào mối liên hệ giữa bệnh cảm lạnh và vitamin C.

Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu vẫn tiếp tục nghiên cứu riêng Vitamin C và vitamin C kết hợp với các vitamin và các chất khác, như Echinacea, thuốc có tác dụng ngăn ngừa và điều trị các bệnh bao gồm cả ung thư.

Giáo sư Hemilä cho biết, ông nhận thấy không có nhiều ích lợi trong các nghiên cứu sâu hơn cho bệnh cảm lạnh ở người lớn. Tuy nhiên, ông muốn có nhiều người cứu hơn về vitamin C và bệnh cảm cúm ở trẻ em và vitamin C và bệnh viêm phổi vì tuy Vitamin C không phải là thuốc chữa bách bệnh nhưng nó cũng không phải là thuốc vô dụng.

Thanh Vân
http://www.khoahoc.com.vn/view.asp?Cat_ID=6&Cat_Sub_ID=5&news_id=16342

Saturday, July 21, 2007

Jacinta Kerabu, 42 tuổi - Người phụ nữ Kenia có khả năng miễn dịch với AIDS vừa được các nhà khoa học phát hiện ra

Jacinta Kerabu, 42 tuổi - Người phụ nữ Kenia có khả năng miễn dịch với AIDS vừa được các nhà khoa học phát hiện ra (Ảnh: Taipeitimes.com)

AIDS là căn bệnh thế kỷ chưa thể cứu chữa, trong đó virus HIV phá hoại hệ thống miễn dịch của con người. Trong giai đoạn đầu mắc bệnh, khi virus HIV chưa có thời gian chuyển thành AIDS, một trận chiến giữa virus HIV và hệ thống miễn dịch của con người đã diễn ra.

Hệ thống miễn dịch khi đó đã "điều động" các tế bào miễn dịch chủ chốt để ngăn cản virus HIV sinh sôi nảy nở vượt ngoài khả năng kiểm soát. Sự thành công của hệ thống miễn dịch ở mỗi người rất khác nhau. Điều đó lý giải tại sao hệ thống miễn dịch của một số người có thể hạn chế virus HIV xuống mức thấp nhất, nhưng một số khác lại không thể.

Phát hiện này mở ra triển vọng điều chế được loại vắc-xin phòng chống bệnh HIV/AIDS hoặc các loại thuốc tăng cường hệ thống miễn dịch của con người.

Nghiên cứu được công bố trên tạp chí Khoa học số ra mới đây.
http://www.khoahoc.com.vn/view.asp?Cat_ID=6&Cat_Sub_ID=5&news_id=16361

Thursday, July 12, 2007

Tôm hùm khổng lồ



Tôm hùm khổng lồ - 11/7/2007 11h:50

Nặng 4,5 kg, dài gần 1 mét - gấp ba lần tôm lớn bình thường, tấm thân tôm hùm Lemmy 50 năm tuổi “bồ tượng” tới mức chẳng xoong nồi nào có thể nhét vừa. Lemmy vốn rất hài lòng với nơi trú ẩn lý tưởng của nó: trong một chiếc nồi súp de cũ kỹ dưới đáy biển kênh đào Le Manche, cho đến khi bị bác thợ lặn Chris Hovard 51 tuổi ở Dorset (Anh) phát hiện ra.

Lần đầu tiên trong đời thợ lặn Hovard tận mắt chứng kiến một con tôm vĩ đại như thế, đó là lý do của cuộc rượt đuổi hàng tiếng đồng hồ dưới đáy biển tây nam nước Anh, nhưng cả người và tôm dường như không ai thấm mệt.

Cuộc đuổi bắt kết thúc trong vô vọng khiến Hovard buồn bã nghĩ rằng, sẽ không bao giờ bác được nhìn lại con tôm hiếm có một lần nữa. Nhưng thật bất ngờ khi quay trở lại chiếc nồi hơi cũ kỹ, hai chiếc càng khổng lồ đột ngột xỉa ra như thách thức. Tuy nhiên bằng động tác gọng kìm nhanh lẹ, Hovard đã tóm gọn con giáp xác có tuổi đời gần nửa thế kỷ bằng một cái túi dây.

“Cái lưng của nó thật vĩ đại, bề ngang có khi còn dài hơn cả gang tay” - bác thợ lặn lão luyện kể. “Nó xấu xí, hung hăng và ngay lập tức khiến tôi liên tưởng tới ca sỹ Lemmy trong ban nhạc Motörhead”.

Rất may là cái thân hình đặc biệt quá khổ đã giúp tôm Lemmy thoát khỏi kết cục “lên đĩa”. Nơi cư trú mới của nó bây giờ là bể thủy sinh tại Trung tâm đời sống biển Weymouth (Anh).


(Ảnh: Metro)

Theo Metro, BBC

http://www.khoahoc.com.vn/view.asp?Cat_ID=9&Cat_Sub_ID=0&news_id=16171

Tuesday, July 3, 2007

Từ thuốc Bắc, thuốc Nam, thuốc dân tộc,. . . đến dược thảo

Từ thuốc Bắc, thuốc Nam, thuốc dân tộc,. . . đến dược thảo

Mai Thanh Truyết - đăng lúc 07:00AM, 05/19/07

Những danh từ dùng cho tựa đề của bài viết nầy đều có cùng chung một định nghĩa và ứng dụng tùy theo không gian và thời gian. Thuốc Bắc ở Việt Nam dùng để chỉ các loại thuốc dùng cây, lá, rễ, củ, hột, v.v... đã được biến chế do một Đông y sĩ người Trung Quốc khám bịnh và cho toa. Còn thuốc Nam, tương tự như thuốc Bắc, nhưng do một Đông y sĩ người Việt Nam đảm nhận. Các loại cây lá được biến chế trong thuốc Nam tương đối đơn giản như phơi khô hoặc sấy khô, và cân lượng cũng không có yêu cầu chính xác như một nấm lá khô, một muỗng bột rễ cây...thay vì một chỉ ..., ba ly... như ở thuốc Bắc.
Người được chẩn bịnh sau khi nhận thuốc xong, mang về nấu trong một cái nồi đất với (thông thường) ba chén nước và đun sôi. Khi nước “sắc” lại còn tám phân, bịnh nhân “chắt” nước ra, để nguội và uống. Một thang thuốc có thể uống được nhiều lần, thường là hai lần.
Thuốc dân tộc chỉ được dân miền Nam nghe đến kể từ sau 30 tháng tư năm 1975 do miền Bắc xâm nhập vào. Thuốc dân tộc không cần có Đông y sĩ chẩn mạch như thuốc Bắc và thuốc Nam. Thuốc đã được bào chế sẵn cũng như được “nhà nước” công bố công dụng của từng loại cây, lá, hay cũ... dùng để chữa trị một bịnh nào đó. Và dân chúng cứ thế mà dùng, cho dù có hiệu nghiệm hay không. Nếu chúng ta đã từng sống trong xã hội Việt Nam khoảng năm năm đầu sau khi nước nhà được “thống nhất”, chắc ai cũng còn nhớ cây xuyên tâm liên. Thực sự, người viết chưa từng thấy cây nầy cũng như cung cách chữa trị như thế nào, và trị bịnh gì? Nhưng, trong giai đoạn trên, mỗi lần đi khám bịnh ở phòng y tế phường hay xã, đều được cán bộ chữa trị bằng xuyên tâm liên. Người viết cũng đã từng nghe nhiều câu chuyện kỳ thú về xuyên tâm liên do một anh bộ đội vượt Trường Sơn kể như sau: “nếu vợ chồng không có con trong một thời gian dài, đôi vợ chồng nầy sẽ được cán bộ hướng dẫn là mỗi khi “ăn nằm” với nhau, chỉ cần cột một dây xuyên tâm liên qua bụng người vợ. Thế là sẽ có con sau đó ngay!”
Còn câu chuyện dài dược thảo ở Hoa Kỳ thể hiện “tính khoa học” còn cao hơn nữa, nhất là trong cộng đồng Việt Nam. Các Đông y sĩ ở đây, nói chung đều mang (được mang, hay tự mang) những danh hiệu rất oai là Bác sĩ Đông y (Oriental Doctor - OD) hay Tiến sĩ Đông Y (Ph.D of Oriental Medicine), cũng như nhiều danh xưng nổ khác nữa. Thật ra, ở đây cũng căn cứ vào rễ, thân, củ, lá, hột như thuốc Bắc và thuốc Nam; tất cả được chế biến có tính cách hoàn chỉnh hơn dược thuốc Bắc và thuốc Nam, gần giống như các loại thuốc của y khoa hiện đại như dạng bột, viên, hay viên bọc nhựa, nước, hay dạng thuốc tễ v.v...
Trong phần trình bày sau đây, chúng tôi sẽ bàn về định nghĩa, nguồn gốc, cách dùng và những vấn nạn có thể xảy ra sau khi dùng thuốc dược thảo. Danh từ “thuốc” dùng ở đây để chỉ tất cả các loại cây, cỏ, rễ, thân, lá, củ, hột... chứ không nói đến những hóa chất khác được gian thương cho thêm vào để làm tăng một vài đặc tính trị liệu mà không cần lưu tâm đến những di hại về sau, như arsenic, đồng, chì, thủy ngân, selenium, thậm chí vàng (gold) nữa.

Nguồn gốc và định nghĩa dược thảo
Theo quan điểm của các nhà khoa học Hoa Kỳ, khoa dược thảo chỉ có thể được xem như là một phương cách trị liệu bổ túc (complementary therapy), chuyên dùng các loại cây hay hóa chất trích ly từ cây. Do đó, đây là một ngành y khoa riêng biệt đặt trọng tâm chữa trị bằng cây cỏ có trong thiên nhiên. Và danh từ herbalism dùng để chỉ hệ phái dùng cây cỏ để trị liệu hầu hết các bịnh gần giống như tất cả những bịnh liệt kê trong ngành y khoa hiện đại.
Nguồn gốc của ngành y khoa dược thảo được xem như xuất hiện từ khi có sự hiện diện của con người trên quả địa cầu. Và nếu đi xa hơn nữa, nguồn gốc nầy đã có trước khi loài người xuất hiện (qua sự tiến hóa từ khỉ). Giống khỉ Chimpanzees đã biết ăn một loại lá cây đặc biệt để diệt các ấu trùng trong bao tử. Loài nai đã biết truy tìm các lá dùng để kích thích tâm thần (psycho-active). Một số thú vật khác cũng đã biết tìm đến nấm như penicillin và các loại nấm chống nấm (antifungals) để trị liệu hay tiêu diệt các loại bò chét ngoài da. Sau đó, con người mới biết áp dụng trong trị liệu như những liều thuốc kháng sinh.
Ngành dược thảo đúng nghĩa đã góp phần không nhỏ vào việc trị liệu bổ túc và song hành với ngành y khoa hiện đại. Thuốc phiện (morphine) được trích ly từ cây thuốc phiện (poppies), aspirin từ cây liễu, và digoxin dùng để chữa trị nhịp tim đập không đều đến từ cây đuôi chồn (foxglove).
Ngành dược thảo không ngừng ở mặt trị liệu từng bộ phận hay từng bịnh mà còn có “tham vọng” chữa trị toàn cơ thể con người, và “khuyến khích” cơ thể tự “hoàn chỉnh” hay điều chỉnh qua thuốc cây cỏ. Các nhà chuyên môn của ngành nầy nghĩ rằng, những hóa chất trong một tập hợp cây cỏ sẽ làm cân bằng cơ thể và tạo nên những phản ứng hỗ tương để chữa trị toàn thể con người.
Có thể nói ngành y khoa cây cỏ ngày nay phát triển rất nhanh trên toàn thế giới. Mức tiêu thụ ước tính khoảng 23 tỷ Mỹ kim trong năm 2004 căn cứ vào báo cáo của cuộc triển lãm quốc tế lần thứ hai về dược thảo. Hiện tại, có khoảng 34% người Hoa Kỳ lớn tuổi đã hơn một lần viếng các Bác sĩ Đông y dược vào năm 1990.

Vấn đề an toàn của dược thảo
Có một khái niệm hết sức thông thường và tự nguyện của người đời là, dược thảo nghĩa là cây cỏ (herbal) là tự nhiên (natutal), và là an toàn (safe); vì vậy, dược thảo ao toàn hơn các loại thuốc bằng hóa chất hay tổng hợp hóa chất do ngành y dược khoa hiện đại bào chế.
Do có suy nghĩ trên, cho nên một số người Hoa Kỳ và dĩ nhiên, một số không nhỏ người Việt ở hải ngoại lẫn thường dùng các loại thuốc cây cỏ trong công việc phòng bịnh và trị bịnh. Đối với dược thảo, các nhà sản xuất không cần phải khai báo với Cơ quan Thực phẩm và Dược phẩm (FDA) về cơ cấu của thuốc, cũng như tính hiệu nghiệm, cùng phản ứng phụ, và mức an toàn của thuốc đặc chế. FDA cũng không đòi hỏi thông tin cần được liệt kê trên nhãn hiệu của các lọ thuốc. Do đó, kết quả dù tích cực hay tiêu cực, hay ảnh hưởng dài hạn lên cơ thể hoàn toàn không được biết đến và cũng không có một cuộc nghiên cứu dài hạn nào để thẩm định mức an toàn của thuốc.
Thí dụ như nước trích từ cây nhàu (gingko biloba) đã được quảng cáo rầm rộ trong cộng đồng Việt Nam trước đây, và hiện nay vẫn còn lai rai...là có khả năng trị bá bịnh. Có mấy ai biết được, qua nghiên cứu khoa học, phản ứng của thuốc nầy có thể gây ra hiện tượng chảy máu bên trong cơ thể, và có thể gây ra phản ứng với các yếu tố làm chống đông máu có sẵn trong máu của con người.
Mặc dù Luật Dietary Supplement Health & Education Act năm 1994 cho phép các loại thuốc thực vật trên được ghi trong nhãn hiệu hướng dẫn cách dùng và tính hiệu nghiệm của thuốc. Nhưng trên thực tế ngoài thị trường, các nhãn hiệu trên hoàn toàn không ghi rõ về cách định bịnh, chữa trị hay phòng bịnh gì cả!
Thêm một điều nữa là dược thảo không bị đòi hỏi phải cung cấp tỷ lệ các thành phần hóa học cấu tạo ra thuốc, cũng như tính tinh khiết (purity) như các loại thuốc dành cho ngành y khoa hiện đại. Do đó hiệu quả của cùng một loại thuốc, cùng một nhãn hiệu có thể không giống nhau vì do những tạp chất có trong thuốc thay đổi trong lúc sản xuất như phấn hoa, chất gây dị ứng cho cơ thể, bào tử của hoa v.v.. Và tỷ lệ khác biệt nầy có thể thay đổi tính hiệu nghiệm của thuốc, đôi khi gây ra những phản ứng bất lợi cho bịnh nhân.
Do đó, mặc dù một số dược thảo có thể trợ giúp giải quyết một số bịnh của con người, nhưng điều đó không có nghĩa là dược thảo đạt được mức an toàn. Theo khuyến cáo của ngành y dược khoa tân tiến, phụ nữ đang mang thai không nên dùng dược thảo vì có thể có phản ứng bất ngờ và có thể bị trụy thai.
Đối với các loại thuốc trong ngành dược khoa, dựa vào hóa chất tổng hợp hay một số trích ly từ cây cỏ, hay nấm trong thiên nhiên, nhưng các thuốc nầy đã được nghiên cứu kỹ lưỡng, với cân lượng chính xác, và được thí nghiệm lên thú vật hay con người trong một thời gian dài trước khi tung ra thị trường. Và dĩ nhiên, những thuốc trên cũng có thể có những phản ứng phụ hay phản ứng khi dùng khi dùng nhiều loại thuốc khác nhau trong cùng một thời điểm. Điều nầy cũng đã được liệt kê trên nhãn thuốc hay được bác sĩ khám bịnh khuyến cáo và lưu ý bịnh nhân khi kê toa.
Tuy nhiên, điều trên đây không xảy ra đối với dược thảo về các điều kiện bào chế thuốc. Hiện tại, hầu hết các sản phẩm dược thảo đều nằm ngoài tầm kiểm soát của những luật lệ quy định cho ngành y khoa. Điều đó có nghĩa là không có gì bảo đảm cho sự hiệu nghiệm của thuốc, cũng như thành phần cùng cân lượng của những chất hóa học cấu tạo ra thuốc. Ngay cả nhà bào chế thuốc cũng không đạt được tính chính thống của ngành, mỗi nhà bào chế (sản xuất) theo từng trường phái dược thảo khác nhau. Thí dụ thuốc nhàu của nhà bào chế A sẽ khác thuốc của của nhà bào chế B. Một thí dụ khác điển hình là nếu bạn bị bịnh về tim, bịnh viêm yết hầu (angina), cao áp huyết, hay chứng đau mắt (glaucoma), một số dược thảo dùng để trị liệu các chứng bịnh kể trên sẽ đưa đến những phản ứng có thể làm chết người đối với bịnh nhân bị tiểu đường loại I hay bị chứng phong giựt (epilepsy). Thêm nữa, các dược thảo quảng cáo cho những bà mãn kinh nguyệt và hay bị chứng nóng mặt (hot flashes) là các loại cỏ và rể của cây Black Cohosh, Black Snake, Bugwort, Rattle weed. Thực sự nếu dùng các loại dược thảo kể trên, các bà có thể giảm chứng nóng mặt lúc ban đầu nhưng hậu quả sẽ phải trả là một giá rất đắt, đó là bịnh ung thư. Nên nhớ, nếu không dùng thuốc chi cả, chứng nóng mặt sẽ biến mất sau một thời gian.
Từ những nhận định trên, câu hỏi được đặt ra là, chúng ta có nên dùng dược thảo không?

Hiệu năng của dược thảo
Đối với ngành y dược khoa, một thuốc mới sắp ra sẽ phải được kiểm chứng qua nhiều giai đoạn như vừa kể trên, điều đó không những bảo đảm được tính hiệu nghiệm và an toàn của thuốc, mà còn đi xa hơn nữa là liệu thuốc mới vừa được tung ra thị trường có an toàn hơn (safer), và hiệu nghiệm hơn khi so sánh với các loại thuốc đã sản xuất trước kia và có cùng một mục đích trị liệu.
Nhưng đối với dược thảo, hoàn toàn không có một nghiên cứu nào cả mà chỉ dựa vào cảm tính (intuition) nhiều hơn. Do đó, nhiều khi bịnh nhân phải trả một chi phí cao cho dược thảo mà không nhận được kết quả trị liệu nào cả, không kể đến những phản ứng phụ có thể xảy ra.
Để trả lời câu hỏi trên, quan điểm của một số nhà y dược học là:
-Một số dược thảo được xem như là một loại thức ăn bổ túc (food additive) như các loại sinh tố thiên nhiên và vô hại cùng những loại muối khoáng, cũng như không ảnh hưởng và phản ứng phụ cho người tiêu dùng.
- Ủy ban An toàn Y khoa (Committee on Safety of Medicine) khuyến cáo bịnh nhân cần phải tham khảo với bác sĩ về các loại dược thảo đang dùng trước khi được giải phẫu, vì có rất nhiều loại dược thảo dị ứng với hóa chất gây mê, chống đông máu, và những thuốc sử dụng trong và sau khi giải phẫu.
- Còn Viện Quốc gia Những Nhà Sưu tầm Dược thảo (National Institute of Medical Herbalists) khuyến cáo nhà dược thảo cần phải theo dõi từ ba đến năm năm ảnh hưởng lên con người của dược thảo đã được bào chế trước khi tung ra thị trường.
Vì những lý do trên cùng những hạn chế thông tin về dược thảo, lời khuyên hay nhất cho người sử dụng dược thảo là cần phải tham khảo bác sĩ gia đình và những bác sĩ chuyên môn về dược thảo (herbal practictioner) trước khi dùng.
Cũng cần nên tham vấn nhà dược thảo trị liệu để họ có thể hiểu rõ hơn điều kiện sức khỏe tổng quát của bịnh nhân, cùng các loại thuốc đã hay đang sử dụng, cuộc sống thường nhật của bịnh nhân và lịch sử về sức khỏe gia đình. Và sau một thời gian trị liệu bằng dược thảo, bịnh nhân cần phải đến tham khảo thêm để có thể chận đứng được những phản ứng phụ kịp lúc nếu có.
Sau cùng, Viện Sức khỏe Quốc gia (National Institute of Health) có một mạng lưới tập trung về những nghiên cứu liên quan đến dược thảo cũng cần được tham khảo thêm qua Trung tâm Quốc gia về Y khoa Bổ túc và Tương ứng (National Center for Complementary & Alternative Medicine).

Thay lời kết
Ngày hôm nay, ngoài những bữa ăn chính, nhiều người cần phải có thức ăn dinh dưỡng bổ túc (dietary supplements) tùy theo điều kiện sức khỏe của cơ thể cả về vật chất lẫn tâm sinh lý. Do đó, sử dụng dược thảo cũng phụ giúp một phần nào trong việc trị liệu với điều kiện là bịnh nhân cũng như người chẩn đoán bịnh và cho thuốc cần hiểu rõ căn bịnh và nhu cầu cần phải có dược thảo bổ túc thêm cho việc trị liệu.
Nhưng trên thực tế, nhất là trong cộng đồng người Việt, đặc biệt tại Hoa Kỳ, dược thảo đã trở thành một kỹ nghệ béo bở cho rất nhiều người. Ngành dược thảo ở đây hoàn toàn độc lập, và hoàn toàn tùy thuộc vào người bào chế (?) và hầu như những nhà bào chế Việt Nam là những cá nhân hoạt động riêng rẽ, không nơi nào giống nơi nào.
Qua truyền thông như phát thanh, báo chí, truyền hình.. .chúng ta hàng ngày nghe ra rả những quảng cáo rất nhiều loại thuốc dược thảo dùng để trị liệu nhiều bịnh khác nhau, cũng như trị “bá bịnh”. Nhiều khi cùng một nguồn gốc dược thảo, những nhà bào chế đã trình bày những phương cách trị liệu và liều lượng khác nhau.Chúng ta dễ dàng kiểm chứng điều nầy qua các quảng cáo về thuốc nhàu Noni, thuốc cây lô hội v.v.. .
Thậm chí, có những nhà bào chế không biết lấy từ nguồn nguyên liệu nào gọi là sữa ong chúa rồi chia ra thành lọ thuốc mang những con số vô tình khác nhau như: 7, 9,14, 26 v.v.. .để trị bách bịnh hay bá bịnh.
Giả sử như sữa ong chúa có tính chất trị bá bịnh đúng như quảng cáo, mỗi người trong chúng ta thử đặt một câu hỏi nhỏ cho nhà bào chế nầy là, làm thế nào để có đủ lượng sữa ong chúa để sản xuất hàng trăm ngàn chai lọ thuốc như trên? Nên nhớ, mỗi tổ ong chỉ có một con ong chúa và khả năng chứa sữa (?)của một con ong chúa không đạt được 0.05 cc, tức nhỏ hơn một giọt nước. Người viết không rõ người bào chế định nghĩa chữ “sữa” như thế nào, nhưng qua tài liệu tham khảo đọc được, Honey Bee Venom, tức là nọc của loài ong mật có thể trị được chứng đau cơ sơ hóa tức là Fibromyalgia mà thôi!
Cộng đồng người Việt chúng ta ở hải ngoại quá dễ dãi để cho gian thương lợi dụng mà không có một phản ứng nào cả. Cộng thêm một số đồng bào vì dễ tin và nhẹ dạ cho nên vô hình trung đã tiếp tay cho việc làm bất chính trên. Thiết nghĩ, ngày hôm nay, đã đến lúc chúng ta cần góp bàn tay để làm sạch cộng đồng, ý thức bổn phận dân sự (civic duty) của chính mình để cho những cung cách làm ăn không đứng đắn tồn tại trong cộng đồng nữa. Nên nhớ, ảnh hưởng và các phản ứng phụ khi dùng hóa chất không đúng cách (có trong dược thảo sẽ diễn ra sau vài thập niên sử dụng chứ không phải là một ảnh hưởng tức khắc.
Khẩn mong Quý bà con lưu ý đến những điều trình bày trên đây.
Mai Thanh Truyết
West Covina, 5/2007

http://www.vietnamdaily.com/index.php?c=article&p=35403#disc